VỚI CTY CP ĐẦU TƯ THƯƠNG MẠI ÔTÔ QUỐC TẾ VÀ CTY CP TRUYỀN THÔNG OXY DO ĐƠN VỊ MỚI ĐƯỢC CẤP GIẤY HỢP QUY CUỐI NĂM 2012 NÊN CHƯA TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ CHƯA CÓ SẢN PHẨM HỢP QUY CUNG CẤP CHO THỊ TRƯỜNG
I. Phí thẩm xét hồ sơ công bố lần đầu phù hợp quy định ATTP đối với sản phẩm thực phẩm chức năng và thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là 1
Hỗ trợ phân bón cho ngông dân Lý Sơn bị thiệt hại do bão số 11. Trong đợt này có 400 hộ dân trên đảo được nhận phân bón hỗ trợ từ công ty mỗi hộ 25kg, trị giá 285.000đồng, để khẩn trương khắc phục hậu quả sau bão tái sản xuất vụ tỏi đông xuân. Tổng giá trị của đợt hỗ trợ là 114 triệu đồng. Ông Lương Anh Tuấn - đại diện lãnh đạo công ty CP phân bón và hóa chất dầu khí Miền Trung cho biết - đây là việc làm thiết thực, nhằm chia sẻ với khó khăn của nông dân trên đảo bị mưa bão làm thiệt hại hoa màu, tài sản. Sau đợt hỗ trợ này công ty sẽ tiếp tục thực hiện chương trình an sinh xã hội tại huyện đảo. Được biết, trong cơn bão số 11 vừa qua, huyện Lý Sơn có trên 150ha hành vụ thu đông bị hư hại, ngoài ra nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp sản xuất vụ tỏi đông xuân vừa cải tạo xong bị mưa bão cuốn trôi, ước thiệt hại về nông nghiệp trên 31 tỉ đồng. Nguồn nguyên liệu trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay ở Thừa Thiên - Huế cùng như nhiều vùng nông thôn khác trong cả nước bao gồm bèo lục bình, rác thải sinh hoạt, rơm rạ sau mỗi mùa vụ kết thúc tồn đọng rất lớn, làm ô nhiễm môi trường và nhất là tạo sự lo lắng cho người dân, chính quyền sở tại. Áp dụng mô hình và chuyển giao kỹ thuật nói trên cho hàng trăm hộ dân trong vùng thuộc các xã, phường: Thủy Thanh, Thủy Vân, Thủy Lương, Thủy Châu thị xã Hương Thủy cho thấy sau từ 45 - 60 ngày trộn ủ theo đúng quy trình kỹ thuật, đã cho ra sản phẩm phân hữu cơ sinh học đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng. Với thành phẩm này, nhiều gia đình sử dụng bón cho cây hoa, cây sinh trưởng và phát triển tốt, hoa thu hoạch có chất lượng cao, mức độ nhiễm bệnh nhẹ hơn, màu sắc lá và hoa tươi, sáng hơn so với diện tích cây hoa đối chứng không được bón phân hữu cơ vi sinh. Nhiều diện tích lúa, rau, màu phát triển nhanh, đặc biệt kháng được bệnh, tạo độ mùn và tơi xốp cho đất. Từ Hợp quy, phân bón npk hiệu quả về chất lượng sản phẩm và kinh tế, hiện mô hình chế biến phân hữu cơ sinh học nói trên đang được nhân rộng ra nhiều địa bàn khác trong tỉnh Thừa Thiên - Huế.../..
Hiện nay đang vào vụ hè thu nên nhu cầu sử dụng phân bón khá cao, nhất là tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tại Đông Nam bộ và Tây Nguyên, nhu cầu phân bón tăng để phục vụ bón phân cho cây cà phê và cao su. Mặc dù nhu cầu sử dụng phân bón tăng nhưng do nguồn cung dồi dào nên giá phân bón ổn định, không có sự sốt giá và mua hàng cho nhu cầu dự trữ như cùng kỳ năm trước, riêng giá urê vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, Bộ Công Thương đưa ra dự báo trong thời gian tới, thị trường phân bón trong nước sẽ có biến động do ảnh hưởng bởi sự biến động của thị trường phân bón quốc tế. Các thị trường lớn như Ấn độ, Trung Quốc được dự báo sẽ tăng giá nhiều loại phân bón đặc biệt là urê phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ thực hiện chính sách không khuyến khích xuất khẩu phân bón. Một số doanh nghiệp trong ngành cho biết, hiện nay tình trạng phân bón giả, kém chất lượng gây ảnh hưởng đáng kể đến tình hình tiêu thụ phân bón của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Vì vậy, các ngành chức năng cần tăng cường công tác quản lý thị trường, chống hiện tượng đầu cơ tích trữ, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng; thực hiện việc niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.Hằng Trần. Dây chuyền NM sản xuất phân bón NPK cao cấp đầu tiên tại miền Bắc chính thức khánh thành và đi vào hoạt động từ đầu năm 2010, với tên gọi cho dòng sản phẩm này là phân bón cao cấp Hữu Nghị. Đến nay, sản phẩm đã có mặt ở hầu khắp các tỉnh thành trong cả nước. Bí quyết gì để sản phẩm này chiếm lĩnh thị trường nhanh như vậy? Để hiểu rõ vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Lê Hùng Mạnh ảnh – Giám đốc Cty TNHH liên doanh phân bón Hữu Nghị. Thưa ông, cơ duyên nào dẫn đến sự hợp tác giữa TCty CP Hàm Rồng với nhà đầu tư nước ngoài trong việc cho ra đời liên doanh phân bón Hữu Nghị? Cty TNHH liên doanh phân bón Hữu Nghị được thành lập trên cơ sở liên doanh giữa Tổng Công ty cổ phần Hàm Rồng Thanh Hóa với hai đơn vị là Viện nghiên cứu hóa chất và Tập đoàn phân bón lớn của nước ngoài, với dây chuyền công nghệ do Nhật Bản chuyển giao, trong đó phía nước ngoài đầu tư 60%, phía Việt Nam 40% vốn. Xuất phát từ mong mỏi của chúng tôi là có nhiều loại phân bón chất lượng cao, giá cả phải chăng cung ứng cho nền nông nghiệp nước nhà. Trên thị trường hiện có rất nhiều loại phân bón, phân bón Hữu Nghị có gì khác biệt để chiếm lĩnh được thị trường? Dây chuyền sản xuất phân bón NPK cao cấp của Cty Hữu Nghị theo công nghệ hóa lỏng urê và tạo hạt bằng hơi nước, được đầu tư đồng bộ khép kín khắc phục được triệt để các hạn chế của công nghệ sản xuất NPK tạo hạt bằng nước hoặc phân ba màu. NPK sản xuất theo công nghệ tạo hạt bằng hơi nước có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, rất ít hoặc không sử dụng phụ gia nên lượng bón ít hơn nhiều so với NPK thông thường, giảm chi phí vận chuyển, lưu trữ, chăm bón, phân bón dễ tan. Nhờ đó cây trồng dễ hấp thu, tăng hiệu lực phân bón, giảm tồn dư các chất không có lợi trong đất, cải tạo đất và bảo vệ môi trường. Do nguyên liệu đều được nghiền mịn, trộn đều tạo thành 1 hạt đồng nhất và toàn bộ dây chuyền được điều khiển bằng phần mềm vi tính nên chất lượng sản phẩm luôn ổn định; độ ẩm sản phẩm cực thấp, hạt phân bón khô nhẵn, đồng đều, không bụi bẩn nên bảo vệ sức khỏe bà con khi chăm bón. Ông có thể nói rõ hơn về công nghệ urê hóa lỏng? Ở Việt Nam hiện nay đã có một số nhà máy sản xuất phân bón lớn sản xuất phân bón theo công nghệ tạo hạt bằng hơi nước, nhưng công nghệ urê hóa lỏng thì chỉ mới 1 – 2 đơn vị áp dụng được. Công nghệ này đòi hỏi trình độ cao, giúp sản xuất được những loại phân bón một màu có hàm lượng đạm cực cao trên 20%, tăng phẩm chất sản phẩm và có thể linh hoạt trong việc sử dụng các loại nguyên liệu đạm khác nhau. Nhờ áp dụng công nghệ này chúng tôi có thể sản xuất các loại NPK có gốc đạm khác nhau, phù hợp cho đặc điểm thổ nhưỡng, cây trồng và thời kỳ nhất định. Chẳng hạn đối với khu vực Tây Nguyên, phân bón Hữu Nghị sử dụng urê hóa lỏng đã có hiệu quả rõ rệt so với các loại phân bón khác, bởi khu vực này lượng lưu huỳnh tồn dư quá lớn. Công nghệ của Cty phân bón Hữu Nghị có thể tạo loại phân bón phân giải nhanh hoặc phân giải chậm tùy đặc điểm cây trồng và tập quán canh tác của bà con. Với cây rau màu, cây trồng cạn hoặc với cây ăn trái, cà phê trồng trên đất đồi điều kiện nước tưới khó khăn, bà con có tập quán quai vãi phân. Trước đây khi bón các loại phân trộn thông thường rất khó tan, có vùng sau hàng vụ bón mà phân vẫn không tan nên hiệu lực phân bón rất thấp. Phân bón Hữu Nghị có loại tan nhanh giúp cây trồng hấp thu dinh dưỡng tốt. Ngược lại, với một số loại cây lấy củ và cây ăn trái, phân bón Hữu Nghị lại có sản phẩm phân giải chậm cung cấp dinh dưỡng theo chu kỳ dài của cây, giảm thất thoát phân bón. Sản phẩm này phân giải chậm nhưng kết thúc chu kỳ phân luôn tan hết. Người dân tham quan ruộng lúa sử dụng phân bón cao cấp Hữu Nghị Nghĩa là phân bón Hữu Nghị đáp ứng được nhu cầu của nhiều loại cây trồng? Đúng vậy! Chúng tôi đã nghiên cứu và cho ra đời rất nhiều bộ sản phẩm đáp ứng hầu hết các loại cây trồng chính tại Việt Nam, từ cây lương thực, cây rau màu, cây ăn trái đến cây công nghiệp. Ngoài các bộ sản phẩm dùng chung cho các dòng cây như NPK 16-16-8.13S, 20-20-15.Te, 15-15-15.Te, ... Chúng tôi còn có các dòng phân chuyên dùng cho một số loại cây trồng cho diện tích thâm canh lớn như: Lúa, cà phê, cao su, thanh long... Nông dân đánh giá thế nào sau khi sử dụng sản phẩm phân bón Hữu Nghị? Sau 4 năm đưa sản phẩm ra thị trường, phân bón Hữu Nghị hiện tại đã được phân phối trên toàn quốc từ các tỉnh đồng bằng, miền núi phía Bắc đến các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, ĐBSCL và xuất khẩu sang Lào, Campuchia. Những ngày đầu đưa sản phẩm mới đến bà con nông dân, đặc biệt với nông dân miền Bắc để thay đổi thói quen chuyển từ sử dụng phân bón hàm lượng dinh dưỡng thấp sang dùng phân bón cao cấp vô cùng khó khăn, nhưng đến nay phân bón Hữu Nghị đã khá quen thuộc với bà con nhiều vùng trên cả nước, được bà con tin tưởng sử dụng. Ở nhiều nơi tại Bắc Giang, Thái Bình, Hà Nội, khi đưa phân bón cao cấp Hữu Nghị đến và khuyến cáo bà con chỉ bón cho lúa 6 – 8 kg/sào Bắc bộ/lần bón, bà con không tin và sợ bón ít thế lúa không tốt được, rồi ít thế thì sợ vãi không đủ. Từ thực tế đó, chúng tôi đã đón nhận được những sẻ chia của bà con nông dân. Cán bộ Cty trực tiếp lội ruộng hướng dẫn bà con vãi phân ít nhưng vẫn đều, và đến khi hết vụ thấy lúa tốt, năng suất tăng lên hẳn bà con mới tin là có loại phân chỉ cần bón ít như vậy. Những vùng trồng cây ăn trái giá trị kinh tế cao tại Tiền Giang, Vĩnh Long, Bình Thuận bà con lại càng hết sức cẩn thận khi lựa chọn sản phẩm phân bón. Khi được lãnh đạo Cty phân tích cách phân biệt phân bón cao cấp với phân bón thường, cam kết dùng sản phẩm thấy tốt mới trả tiền, nhiều nhà vườn lớn đã vui vẻ chở phân về dùng, qua một hai vụ bà con rất phấn khởi khi phân bón có hiệu quả cao... Vậy hiện nay phân bón Hữu Nghị gặp trở ngại gì khi mở rộng thị trường? Chúng tôi lấy chất lượng làm tiêu chí hàng đầu để phục vụ bà con nông dân. Chính vì thế, chiến lược phát triển của Cty trước sau như một là tập trung phát triển bằng chính uy tín chất lượng sản phẩm, nghiên cứu những sản phẩm mang lại hiệu quả sử dụng cao cho cây trồng với những tiến bộ mới về khoa học phân bón. Chúng tôi kiên trì và mong muốn sẽ cùng với những đơn vị phân bón lớn tại Việt Nam lập lại trật tự trên thị trường phân bón, nơi mà chỉ những sản phẩm phân bón có chất lượng mới có cơ hội tồn tại. Tất nhiên, để làm được điều này cần sự hỗ trợ rất lớn từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước. Trân trọng cảm ơn ông!. Theo Tổng cục Hải quan, trong tháng 4 vừa rồi, đã có thêm 228.166 tấn phân bón được NK vào nước ta, trị giá 105,906 triệu USD. Như vậy, so với cùng kỳ 2011, lượng phân bón NK trong tháng 4 năm nay đã giảm tới gần một nửa tháng 4/2011 NK 440.386 tấn phân bón, trị giá 170,594 triệu USD. Tính cả 4 tháng đầu năm nay, lượng phân bón NK cũng giảm khá nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. 4 tháng đầu năm 2011, nước ta đã NK 1.290.938 tấn phân bón, trị giá 477,647 triệu USD. Còn trong 4 tháng đầu năm nay, phân bón NK là 848.419 tấn, trị giá 373,278 triệu USD giảm 34,3% về lượng và 21,9% về giá trị. Trái ngược với phân bón NK, phân bón XK từ đầu năm đến nay đã tăng rất mạnh. Trong tháng 4 vừa rồi, nước ta đã XK 129.365 tấn phân bón, trị giá 57 triệu USD. Trong 4 tháng đầu năm nay, nước ta đã XK 425.305 tấn phân bón, trị giá 188,169 triêu USD, tăng tới 122,2% về lượng và 173,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 15 ngày đầu tháng 5, lại có thêm 60.424 tấn phân bón được XK, trị giá 27,411 triệu USD. Tính ra, từ đầu năm đến nay, đã có 485.729 tấn phân bón được XK ra nước ngoài. Những năm trước, có nhiều thời điểm, các DN cũng đã được XK phân bón. Nhưng đó thường là lúc lượng phân bón được NK về trước đó đang bị tồn đọng khá nhiều do nhu cầu trong nước trầm lắng. Thành ra, phân bón XK chủ yếu là phân nhập tái xuất. Lượng phân bón XK của các năm trước cũng không nhiều, nên Tổng cục Hải quan không ghi riêng ra thành một mặt hàng trong danh mục thống kê XK hàng hóa từng tháng và cả năm, mà ghép chung vào nhóm hàng hóa khác”. 2 tháng đầu năm nay, phân bón cũng chưa đứng thành hàng hóa riêng trong danh mục XK hàng hóa của Tổng cục Hải quan. Nhưng từ tháng 3 trở lại đây, do lượng phân bón XK tăng đột biến, có số lượng và giá trị XK lớn, nên phân bón đã đàng hoàng có tên” riêng trong danh mục XK hàng hóa. Theo ông Đỗ Văn Hùng, TGĐ Cty CP Phân bón Việt Mỹ, sở dĩ các DN đẩy mạnh XK phân bón, là do sức tiêu thụ ở thị trường nội địa năm nay khá yếu. Từ đầu năm đến nay, thời tiết nói chung tương đối ổn định, nên nhu cầu sử dụng phân bón giảm so với mọi năm. Mặt khác, do quá thiếu vốn nên các đại lý lấy phân bón của các nhà máy ít hơn trước đây. Vì thế, hầu hết các nhà máy phân bón đều đang rất khó khăn trong việc tiêu thụ ở thị trường nội địa. Ông Nguyễn Hạc Thúy, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho rằng, lượng phân bón NK giảm mạnh là do sản xuất trong nước đang ngày càng đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của loại phân bón quan trọng. Như phân ure, sản lượng năm nay chắc chắn sẽ dư so với nhu cầu khoảng 1,8 triệu tấn. Phân NPK, sản lượng trong nước hiện khoảng trên 4 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu chỉ trên 3 triệu tấn … Còn phân bón XK tăng mạnh là do bây giờ XK phân bón không còn phải chờ cấp phép như trước. Đồng thời, nhiều DN đã tích cực tìm kiếm được thị trường, nên đã đẩy mạnh XK. Tuy nhiên, ông Thúy cũng cảm thấy bất ngờ với con số gần 500 ngàn tấn phân bón đã được XK từ đầu năm đến nay, vì lượng xuất như vậy là khá nhiều. Ông Lê Quốc Phong, TGĐ Cty CP Phân bón Bình Điền và là Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam, cũng cho rằng, XK phân bón đang tăng mạnh là nhờ nhiều loại phân bón trước đây nước ta hầu như chỉ NK, nay cũng đã có thể XK. Chẳng hạn phân DAP, trước đây chỉ có chiều NK vào nước ta. Năm nay, cân đối giữa DAP sản xuất trong nước với nguồn DAP NK tiểu ngạch từ Trung Quốc, thấy có dư so với nhu cầu, nên nhà máy DAP Đình Vũ Hải Phòng đã tổ chức XK ra nước ngoài. Nhà máy đạm Phú Mỹ và đạm Cà Mau cũng đã bắt đầu XK ure. Phân NPK sản xuất trong nước cũng đang được các DN đẩy mạnh XK. Cũng theo ông Phong, XK phân bón nước ta đang theo 2 dạng: Có thương hiệu và không có thương hiệu hàng xá. XK phân bón theo dạng thương hiệu mới chỉ có ít DN thực hiện, chủ yếu sang các thị trường gần như Lào, Campuchia … Riêng với Cty Phân bón Bình Điền, trong năm nay, sẽ XK phân bón thương hiệu Đầu Trâu với số lượng khoảng 130 ngàn tấn sang 2 thị trường này đến thời điểm này đã XK được 60 ngàn tấn. XK phân bón có thương hiệu, DN sẽ có được giá bán tốt hơn, lợi nhuận cao hơn, và quan trọng nhất là sẽ giữ được thị trường ổn định, lâu dài. Còn XK không thương hiệu hàng xá, chủ yếu sang các thị trường như Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia, châu Phi … XK kiểu này thường chỉ mang tính chất giúp gia tăng sản lượng, giải quyết công ăn việc làm hợp quy, phân bón npk cho các DN. Vì các nhà NK khi nào thấy giá của Việt Nam rẻ hơn nước khác, họ mới mua về để đóng bao rồi tung ra thị trường dưới thương hiệu của họ. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, 5 tháng đầu năm, NK phân bón giảm mạnh cả lượng và giá trị. Cụ thể, ước tính khối lượng NK phân bón các loại trong tháng 5 đạt 159 nghìn tấn với giá trị 43 triệu USD, đưa khối lượng NK phân bón 5 tháng đầu năm đạt gần 1,31 triệu tấn, kim ngạch NK đạt 405 triệu USD, giảm 14,9% về lượng và giảm 35,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khối lượng NK phân urê ước đạt 27 nghìn tấn với giá trị 8,9 triệu USD, giảm 71,7% về lượng và giảm 75,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013; phân SA ước đạt 396 nghìn tấn với giá trị NK 55 triệu USD, giảm 1,8% về lượng nhưng giảm tới 32,9% về giá trị. Nguồn phân bón NK chủ yếu từ Trung Quốc, chiếm tới 45,3% tổng kim ngạch NK.. Lãnh đạo Sở NNPTNT Thanh Hóa và Công ty Supe Lâm Thao tham quan mô hình khảo nghiệm giống lúa mới có áp dụng quy trình bón phân NPK-S khép kín. Kháng đạo ôn hiệu quả Vụ mùa 2014 này, trung tâm đã phối hợp với Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao Công ty Supe Lâm Thao tổ chức khảo nghiệm và mở rộng sản xuất trên quy mô lớn tại các vùng sinh thái của tỉnh Thanh Hóa với 3 giống lúa gồm thuần Việt 2, thuần Việt 7 và thanh ưu 4 như Thọ Xuân, Hoàng Hóa, Như Xuân…với diện tích 35ha bằng phương pháp bón phân NPK-S Lâm Thao đồng bộ khép kín. Qua tham quan mô hình trình diễn tại cánh đồng lúa thuần huyện Thọ Xuân Thanh Hóa, ông Vũ Văn Nam – Giám đốc Trung tâm cho biết: Năm nay, dù thời tiết diễn biến thất thường, nhưng các giống lúa được đưa vào khảo nghiệm tại các ruộng cho thấy vẫn sinh trưởng và phát triển tốt. Hiện, các khu vực khảo nghiệm lúa đã bắt đầu chín, nhìn nhận bằng mắt có thể thấy các ruộng, lúa chín khá đều, đẹp”. Theo ông Nam, đặc biệt, đối với các khu ruộng lúa có áp dụng quy trình bón phân NPK-S khép kín, từ khi gieo giống đến nay đều cho thấy hiệu quả nhất định. Điều đáng nói là khả năng chống chịu thời tiết và kháng sâu bệnh, đặc biệt là các ruộng lúa có bón phân NPK-S không bị mắc bệnh cháy lá đạo ôn… Cũng qua kết quả khảo nghiệm cho thấy, ngoài việc kháng được bệnh hại cho cây lúa, quy trình bón phân NPK-S Lâm Thao khép kín còn giúp giảm được chi phí đầu tư về phân bón, thuốc trừ sâu, công chăm sóc… Từ việc chọn tạo, khảo nghiệm đưa ra giống lúa mới thì việc tìm và đưa vào sử dụng phân bón đạt chất lượng tốt như NPK-Lâm Thao cũng là một khâu rất quan trọng quyết định nhiều đến sự thành công của các giống lúa mới khi đưa ra thị trường cung cấp cho người dân sản xuất đạt hiệu quả cao”- ông Nam khẳng định. Năng suất tăng đạt gần 20% Ông Vũ Xuân Hồng Với chất lượng phân bón đảm bảo, trong những năm qua, sản phẩm của công ty luôn được bà con nông dân trong tỉnh Thanh Hóa tin dùng. Trong những năm tới, công ty sẽ tiếp tục khai thác thị trường và cung cấp đáp ứng đảm bảo nhu cầu dùng phân bón của người dân trong tỉnh. Cho đến thời điểm này, các diện tích lúa khảo nghiệm đang chín đều, bông to, đẹp, năng suất bình quân ước sẽ hơn 60 tạ/ha. Trong đó, thuần Việt 2 đạt trên 62 tạ/ha; thuần Việt 7 và thanh ưu 4 đạt từ 65-68 tạ/ha. Theo đánh giá, với sản lượng năng suất đạt như trên sẽ cao hơn trên dưới 20% so với các vụ trước đó. Với 3 sào lúa thuần tham gia vào mô hình khảo nghiệm theo quy trình bón phân NPK-S khép kín, ông Lê Sỹ Hùng ở thôn 8, xã Thọ Lộc Thọ Xuân cho biết: Từ việc cấy giống lúa thuần mới, áp dụng quy trình bón phân khép kín, năng suất lúa vụ này của tôi ít nhất cũng đạt trên 2,5 tạ/sào. Vụ tới, nếu được tham gia mô hình, tôi sẵn sàng tham gia và cấy thêm diện tích”. Qua kết quả khảo nghiệm trên, ông Nam khẳng định: Đây sẽ là cơ sở quan trọng để chúng tôi đề nghị Sở NNPTNT bổ sung vào cơ cấu phục vụ sản xuất của tỉnh trong vụ tới, trong đó, giống lúa thanh ưu 4 thuộc nhóm ngắn ngày phục vụ sản xuất trên các chân đất: Xuân muộn, cực muộn, mùa sớm làm cây vụ đông, chất đất né lụt cho hiệu quả năng suất tốt. Còn lại, 2 giống lúa, thuần Việt 2, thuần Việt 7, sẽ đề nghị Sở cho mở rộng sản xuất tại các vùng sinh thái trong tỉnh”. Ông Vũ Xuân Hồng – Phó Tổng Giám đốc Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao cho biết: Thanh Hóa là địa phương có đồng đất đa dạng và khá phức tạp với nhiều loại đất khác nhau như đất đồi núi, vùng trũng, đất phèn… Để có loại phân bón phù hợp với điều kiện đó, trong những năm qua, công ty chúng tôi luôn luôn đổi mới trang thiết bị máy móc, áp dụng tiến bộ khoa học mới vào sản xuất tạo ra những sản phẩm mới cung cấp cho bà con nông dân trong toàn tỉnh, trong đó, điển hình là sản phẩm phân bón mới NPK-S đang áp dụng bón cho giống lúa mới trên địa bàn cho thấy hiệu quả thực tiễn tốt”. Theo tin từ Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí DPM, ngày 29/3/2011, DPM cùng với Tập đoàn Sojitz Nhật bản và Cty Phân bón Việt Nhật JVF – công ty thành viên của Tập đoàn Sojitz đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác cung ứng sản phẩm phân bón.Theo thỏa thuận, nhằm hợp tác kinh doanh và mở rộng thị trường nội địa cho sản phẩm phân bón tổng hợp, JVF sẽ cung cấp cho DPM 30.000 – 40.000 tấn/năm phân bón NPK chất lượng cao của chính hãng. Phía DPM sẽ cung cấp cho Sojitz 200.000 – 300.000 tấn urê/năm để xuất khẩu sang Thái Lan, Philippines và các nước khác sau khi đã ưu tiên tiêu thụ đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Việc cung cấp này được thực hiện theo các hợp đồng thương mại, dự kiến sẽ được hai bên nhanh chóng đàm phán và ký kết sau khi Bản ghi nhớ có hiệu lực. Bản ghi nhớ có hiệu lực trong vòng 02 năm kể từ ngày ký.JVF là công ty liên doanh giữa tập đoàn Sojitz Nhật Bản với một đối tác Viêt nam trong đó tập đoàn Sojitz nắm 75% cổ phần, với sản phẩm chính là phân NPK chất lượng cao. Bên cạnh hợp tác cung cấp sản phẩm, hai bên dự kiến ký hợp đồng dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, theo đó JVF hỗ trợ DPM trong công tác vận hành, bảo trì nhà máy NPK do DPM đầu tư xây dựng. Nhằm mục đích này, JVF sẽ thu hút sự tham gia của Cty Central Glass Co., Ltd một công ty hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất NPK của Nhật bản.Trong vòng 15 ngày sau khi Bản ghi nhớ có hiệu lực, hai bên sẽ lập một tổ công tác để xúc tiến các hoạt động hợp tác đã được thống nhất trong Bản ghi nhớ. Khi thỏa thuận hợp tác này đi vào hiện thực. DPM sẽ có điều kiện mở rộng danh mục sản phẩm của mình bên cạnh sản phẩm truyền thống là phân urê, đồng thời có cơ hội chuẩn bị thị trường cho sản phẩm của nhà máy NPK, dự kiến đi vào hoạt động từ năm 2014. Về phần mình, thông qua hợp tác với DPM, Sojitz và JVF hy vọng có thêm nguồn cung urê chất lượng cao để mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Minh Thành Theo DPM like code. Hiện nay, do tình hình giá cả phân bón nhất là DAP và một số loại phân chứa đạm đang giảm nên một số bà con nông dân khi bón phân cho lúa cũng như các loại cây khác thường sử dụng phân đơn để bón, việc sử dụng phân đơn nếu tính toán hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao. Nhưng hiện nay do giá cả phân đạm giảm nên xảy ra tình trạng lạm dụng phân đạm nhiều làm giảm năng suất, chất lượng cũng như dễ gây sâu bệnh nhất là vụ đông xuân. Tại cuộc hội thảo này bà con nông dân đã đặt ra những câu hỏi từ thực tế sản xuất và đã được các nhà khoa học trực tiếp trả lời một cách dễ hiểu, dễ áp dụng vào đồng ruộng.Về chuẩn bị làm đất: Chuẩn bị đất và vệ sinh đồng ruộng trước khi gieo sạ tốt, diệt các tác nhân gây hại như ốc bươu vàng, chuột…Giống: Nên chọn giống phù hợp và nắm rõ các đặc tính của giống.Bón phân:Bón lót: Nếu ruộng bị phèn thì bón lót các loại phân làm giảm độ chua đất như lân KHC hoặc lân viên hiệu Con Trâu”, lượng bón 400 kg/ha, nếu phèn nặng bón 600-700 kg/ha.Bà con nông dân và các đại lý VTNN cần yêu cầu tư vấn hoặc cung cấp sản phẩm phân NPK hiệu Con trâu” xin liên hệ: Cty CP VTTH và phân bón Hóa Sinh. Đ/c: ấp 5, xã Phạm Văn Cuội, huyện Củ Chi - TP.HCM; ĐT: 08 3 7946386 – 3 7946492; fax: 08 3 794 9051; email: mfjsc-cnqp@vnn.vn Bón phân đợt 1 7-10 ngày sau sạ: Dùng NPK 20-20-15 + TE, lượng bón 150 kg/ha hoặc HS-997, lượng bón từ 150-200 kg/ha. Bón nặng giai đoạn đầu giúp cây lúa phát triển bộ rễ, đẻ nhiều nhánh, tăng năng suất. Trên đất phèn bón nhiều lân sẽ làm giảm ngộ độc phèn, tăng khả năng chống chịu của cây. Bón tốt giai đoạn đầu là biện pháp quan trọng để đạt năng suất cao.Bón đợt 2 từ 20-22 ngày sau sạ, nếu lúa dài ngày thì đợt 2 có thể bón 25 ngày sau sạ: Sử dụng HS-998, lượng bón từ 200-250 kg/ha hoặc bón phân cao cấp 20-20-15 + TE, lượng bón 200 kg/ha. Cây cần nhiều đạm và lân để đẻ nhiều nhánh hữu hiệu, phát triển bộ lá, cần bón tập trung để cây phát triển nhánh tập trung.Từ 40-45 ngày sau sạ bón phân đón đòng theo kỹ thuật không ngày không số, sử dụng HS-999, lượng bón 150-200 kg/ha. Thời kỳ tượng đòng nên cần bón nhiều kali. Sử dụng HS-999 giúp lúa tập trung trổ bông, bông to và chắc ít bị lép, tăng năng suất và chất lượng gạo. Hoặc bón phân K30, lượng bón 150 kg/ha.Với quy trình bón phân NPK hiệu Con Trâu” cho lúa vụ đông xuân sẽ giúp cho cây lúa đạt năng suất cao, giảm chi phí và giảm sâu bệnh. TCty Phân bón & hóa chất dầu khí PVFCCo đã kết hợp với Cty CP Phân bón & hóa chất Dầu khí Tây Nam bộ trao tặng phân bón miễn phí cho 260 hộ dân có hoàn cảnh khó khăn tại xã Giục Tượng, huyện Châu Thành Kiên Giang. Mỗi hộ được nhận 50 kg phân bón, gồm 25 kg đạm urê Phú Mỹ và 25 kg phân NPK hoặc DAP. Tổng số đợt trao tặng đợt này khoảng 13 tấn phân bón. Đại diện lãnh đạo PVFCCo tặng phân bón cho nông dân tại xã Giục Tượng Ông Nguyễn Đức Hiển, GĐ Cty CP Phân bón & hóa chất dầu khí Tây Nam bộ, cho biết: Trong bối cảnh giá lúa HT tại khu vực ĐBSCL đang xuống thấp, nhằm tri ân và chia sẻ đối với khách hàng đã tín nhiệm và đồng hành cùng phân bón Đạm Phú Mỹ trong thời gian qua, Cty đã triển khai chương trình tặng phân bón cho nông dân hợp quy, phân bón npk gặp khó khăn để tái SX trong vụ lúa TĐ 2013. Đây là chương trình trao tặng phân bón cho 8 tỉnh ĐBSCL là An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Sóc Trăng và Hậu Giang được diễn ra từ ngày 16 - 20/7 với 2.600 hộ nông dân sẽ được hỗ trợ phân bón các loại, trị giá khoảng 1 tỷ đồng.
II. Các đội QLTT còn phát hiện hàng loạt cửa hàng tự in tem hợp quy để qua mặt các cơ quan chức năng
.Theo kiến nghị của Tập đoàn Hóa chất, các chỉ tiêu chính về sản xuất công nghiệp, doanh thu trong năm 2014 đều thấp hơn cùng kỳ, trong đó sản xuất phân bón đạt thấp nhất so với nhiều năm gần đây. Cụ thể: 4 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ 2013: giá trị sản xuất kinh doanh phân bón và thuốc bảo vệ thực vật giảm 5,8%; doanh thu giảm 10,6%; tồn kho 685 nghìn tấn, trong đó, ure tồn 138 nghìn tấn, NPK tồn kho 279 nghìn tấn… Nguyên nhân chính là lượng phân bón ure và NPK nhập khẩu cuối 2013 và đầu 2014 tăng mạnh trong khi sản lượng ure của 4 nhà máy trong nước đã dư khoảng 300 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó, sản xuất phân bón NPK trong nước chưa được kiểm soát tốt, chủ yếu có quy mô nhỏ, sản xuất thủ công. Có hiện tượng sản xuất phân bón giả ở hầu hết các địa phương. Ngoài ra, nhà máy sản xuất phân ure của Tập đoàn tại Ninh Bình mới đi vào hoạt động cuối năm 2012 nên các chi phí khấu hao, lãi vay chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành phẩm. Than - nguyên liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành phẩm - phải mua với giá cao, trong khi giá bán ure tăng không đáng kể. Vì vậy, Tập đoàn Hóa chất kiến nghị tăng thuế NK ure mã 3102.10.00 từ mức 0-4,5% lên mức chung là 7%; tăng thuế NK NPK mã 3105.20.00 từ mức 0-6% lên mức chung là 8%; tăng thuế NK DAP mã 3105.30.00 từ mức 0-4,5% lên mức chung là 8%. Theo số liệu của TCHQ thì trong năm 2013, phân ure NK tăng mạnh 58,3% 798 nghìn tấn, phân NPK tăng 23,5% 421 nghìn tấn và phân bón loại khác là 3,54 triệu tấn, giảm nhẹ 0,9% so với năm 2012. Tính đến 15/5/2014, tổng lượng phân bón các loại NK gần 1,24 triệu tấn, tăng 3,9%; trị giá NK là 386 triệu USD, giảm 20,4% do giá NK bình quân giảm 23,4%. Trung Quốc là thị trường lớn nhất cung cấp phân bón cho Việt Nam. Từ tình hình trên, cùng với những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, Bộ Tài chính cho biết, thuế suất của mặt hàng ure đã được điều chỉnh tăng từ 0% lên 3% áp dụng từ 01/01/2014 để khuyến khích sản xuất ure. Việc này đã làm giảm lượng NK ure, theo số liệu của TCHQ thì trong 4 tháng đầu năm 2014, ure NK đã giảm 69% về lượng và 72% về trị giá so với cùng kỳ 2013. Theo thông tin của Tập đoàn Hóa chất, tổng phân bón tồn kho là 685 nghìn tấn, trong đó ure tồn 138 nghìn tấn, tăng gần 900% so với cùng kỳ 2013. Như vậy, Bộ Tài chính dự kiến điều chỉnh tăng thuế NK ưu đãi mặt hàng phân ure từ 3% lên 6% bằng mức trần cam kết WTO. Với mặt hàng phân NPK, mức thuế hiện hành là 6%, thấp hơn mức trần cam kết WTO 6,5%. Nhưng biểu thuế NK ưu đãi hiện hành không quy định mức thuế suất lẻ 0,5% nên mức 6% được coi là cao nhất theo cam kết WTO. Vì vậy kiến nghị điều chỉnh tăng lên 8% là không phù hợp cam kết của Việt Nam. Với mặt hàng phân DAP, thuế suất đã được điều chỉnh tăng từ 0% lên 3%, áp dụng từ 01/01/2014. Hiện năng lực sản xuất DAP đạt 250 nghìn tấn/năm. Mặt khác, theo số liệu của TCHQ, lượng NK phân DAP trong hơn 4 tháng đầu năm là hơn 276 tấn, trong đó NK từ Trung Quốc là gần 244 nghìn tấn. Như vậy lượng phân DAP được NK chủ yếu từ Trung Quốc thực hiện theo thuế NK ưu đãi MFN. Theo đó, để khuyến khích sản xuất phân DAP trong nước, đồng thời hạn chế NK từ Trung Quốc, Bộ Tài chính dự kiến tăng thuế suất NK ưu đãi với mặt hàng này từ 3% lên 6% bằng mức trần cam kết WTO. Hiện Bộ Tài chính đang lấy ý kiến các Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Hội Nông dân về các mức điều chỉnh nói trên. Theo custom.gov.vn. Tại xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Cty CP Supe phốt phát & hóa chất Lâm Thao đã phối hợp với Hội Nông dân huyện tổ chức hội nghị tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện mô hình trình diễn bón phân NPK Lâm Thao theo quy trình bón phân cân đối, khép kín các giai đoạn sinh trưởng và phát triển lúa mùa 2013. Tới dự có ông Hoàng Quốc Mậu, Chủ tịch HND huyện; Nguyễn Văn Trí, Phó phòng Kinh doanh Cty và Trần Quốc Toản, Giám đốc Cty TNHH Toản Xuân, đại diện nhà phân phối sản phẩm phân bón Lâm Thao tại tỉnh Nam Định. Tham dự hội nghị còn có sự tham gia của nông dân18 xã, thị trấn trong huyện. Tổng diện tích thực hiện mô hình trình diễn là 6 ha lúa Bắc thơm 7 được triển khai tại 4 xã: Xã Cộng Hòa, Hợp Hưng, Trung Thành, Minh Tân. Ngày gieo mạ: 22 - 25/6/2013, ngày cấy: 2 - 05/7/2013. Trước khi vào vụ, Cty phối hợp Hội Nông dân huyện tổ chức hội nghị tập huấn hướng dẫn sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao theo đúng quy trình đã khuyến cáo tại các địa phương được chọn triển khai mô hình. Quy trình bón phân NPK-S Lâm Thao tại ruộng mô hình Bón cho 1 sào Bắc Bộ 360 m 2 Thời kỳ bón Loại phân Bón lót Trước khi cấy Bón thúc lần 1 Khi lúa bén rễ hồi xanh Bón thúc lần 2 Khi lúa đứng cái làm đòng Phân chuồng 300 kg NPK 5.10.3 – 8 20 kg NPK 12.5.10 -14 9 kg 8 kg Quy trình bón phân tại ruộng đối chứng theo tập quán địa phương Thời kỳ bón Loại phân Bón lót Trước khi bừa lần cuối Bón thúc lần 1 Sau cấy 7-10 ngày Bón thúc lần 2 Trước trỗ 15-20 ngày Phân chuồng 300 kg Đạm 2 kg 3,5 kg 3,5 kg Supe lân 18 kg Kali 2,5 kg 3,5 kg Anh Bùi Đình Tuấn, Chủ tịch HND xã Cộng Hòa đồng thời là người trực tiếp tham gia mô hình phấn khởi dẫn đoàn đại biểu tham gia hội nghị ra thăm khu ruộng trình diễn rộng 500 m 2 của gia đình anh sắp đến ngày thu hoạch. Anh chia sẻ: Từ lúc gieo mạ cho đến thời điểm này, gia đình tôi chỉ bón phân NPK-S Lâm Thao theo đúng quy trình bên Cty khuyến cáo và chỉ phun thuốc trừ sâu 2 lần, thời tiết thì mưa nắng thất thường mà cây lúa vẫn cứng, khỏe mạnh, kháng sâu bệnh tốt. Đặc biệt giai đoạn lúa trỗ, phơi mùa gặp mưa mà tỷ lệ hạt chắc trên bông đạt trên 90%. Vụ này dự kiến khu ruộng này cho năng suất khoảng trên 200 kg/sào ngoài mong đợi của chúng tôi, với giá lúa hiện nay là 7.500 đ/kg thì lãi khoảng 550.000 đ/sào sau khi đã trừ các khoản chi phí”. Tại hội nghị, anh Nguyễn Phú Long, xã Trung Thành, chị Bùi Thị Huế, xã Minh Tân và anh Triệu Đình Hưng, xã Hợp Hưng là các đại biểu nông dân trực tiếp tham gia mô hình cũng không giấu niềm vui khi vụ mùa năm nay được tham gia mô hình, hợp quy, phân bón npk nhờ sự quan tâm, chỉ đạo của HND huyện và các cán bộ thị trường Cty hướng dẫn chỉ dùng NPK-S bón lót và bón thúc theo đúng quy trình kỹ thuật của Cty, không dùng phân đơn đạm, kali như mọi năm, vừa tiết kiệm được chi phí đầu tư canh tác lại thu được hiệu quả kinh tế cao, trung bình mỗi hộ lãi được hơn 500.000 đ/sào. Các anh chị khẳng định từ vụ sau sẽ chỉ dúng các loại NPK-S Lâm Thao như hướng dẫn, đồng thời tuyên truyền cho bà con, anh em cùng áp dụng. Ông La Hoàng Đức - Chủ tịch HĐQT Ngọc Tùng JSC tuyên bố ra mắt sản phẩm phân bón tại Hà Nội Ngọc Tùng JSC được thành lập năm 1997 với vốn điều lệ 230 tỷ đồng, lĩnh vực hoạt động trước đây của DN là cung ứng thuốc BVTV với khối lượng lên tới 6.000 tấn/năm. Tiếp nối thành công ở mảng thuốc BVTV khi nằm trong tốp 10 DN thuốc BVTV lớn nhất Việt Nam, năm 2010 Ngọc Tùng JSC đầu tư 10 triệu USD xây dựng Nhà máy SX phân bón NPK chuyên dùng tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An với công suất 300.000 tấn/năm. Sau thời gian xâm nhập thị trường phía Nam và miền Trung - Tây Nguyên, được bà con nông dân tin dùng, đón nhận, Ngọc Tùng JSC tiếp tục chặng đường chinh phục của mình bằng việc mở chi nhánh phân phối sản phẩm NPK chuyên dùng tại miền Bắc. Theo đó, sản phẩm của Ngọc Tùng JSC mang thương hiệu UDP Cọp Vàng với các dòng phân NPK cao cấp như: 16-16-8; 15-15-15; 18-8-18; 10-10-30; 20-20-25;30-20-0 và một số sản phẩm phân bón hữu cơ, vi sinh, phân bón lá và UDP trung vi lượng Bò Vàng. Theo tin từ Đội QLTT Bình Chánh, Đội vừa kiểm tra Chi nhánh Công ty TNHH SX TM DV Rồng Lửa tại địa chỉ 4A58, ấp 4, xã Phạm Văn Hai, phát hiện trong số các loại phân bón do Chi nhánh sản xuất tại đây có 2 loại gắn logo hàng Việt Nam chất lượng cao nhưng không có giấy chứng nhận gồm 7.500kg phân NPK 50kg/bao và 8.500 kg phân BIO PHK 50kg/bao.Vụ việc đang tiếp tục làm rõ .
Giá bán lẻ phân bón sản xuất trong nước cũng giảm đáng kể, giá phân NPK còn 520.000 đồng/bao, giảm 110.000 đ/bao so với 2 tháng trước; Phân kali và lân cũng giảm từ 350.000-400.000 đồng/bao. Mặc dù giá giảm nhưng do vẫn chưa vào vụ, giá lúa gạo giảm mạnh và khó tiêu thụ nên nhu cầu phân bón vẫn rất thấp. Trong khi đó, sau một thời gian giảm mạnh, nhập khẩu phân bón của Việt Nam trong thágn 10 đã tăng khá mạnh trở lại, đạt trên 174 ngàn tấn phân bón các loại với kim ngạch 108,78 triệu USD, tăng 30,9% về lượng và tăng 35,53% về trị giá so với tháng trước còn so với tháng 10/2007, giảm 53% về lượng nhưng lại tăng 2,1% về trị giá. So với tháng 9/2008, nhập khẩu hầu hết các chủng loại phân bón đều tăng khá. Trong đó, lượng phân bón DAP nhập về tăng mạnh nhất, tăng từ 290 tấn của tháng trước lên trên 39 ngàn tấn; tiếp đến Urea tăng 101%, NPK tăng 25%; SA tăng 51,1%. Nhưng so với cùng kỳ năm 2007 khối lượng nhập khẩu các loại phân bón vẫn giảm khá mạnh như lượng urê nhập về giảm 36%; SA giảm 43,1%; DAP giảm 40,4%; NPK giảm 69,7%.Tính đến hết tháng 10/2008, tổng nhập khẩu phân bón các loại đạt 2,815 triệu tấn với trị giá 1,39 triệu USD, giảm 6,1% về lượng nhưng lại tăng 88,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Chủng loại nhập khẩu phân bón tháng 10 và 10 tháng năm 2008: Tên hàng Tháng 10/208 So với tháng 9/208 Tháng 10/08 Lượng tấn Trị giá ngàn USD Lượng % Trị giá % Lượng tấn Trị giá ngàn USD PB các loại:174.324108.77830,9035,532.815.7601.394.911Phân Urea63.38632.824100,78143,68694.100281.904Phân NPK2.6842.44425,0119,92155.35488.280Phân DAP39.11846.919379.774354.476Phân SA54.19717.18651,8053,25615.871167.914PB loại khác13.9389.406-78,04-82,35969.661502.337. Đây là thông tin được đưa ra tại hội thảo về triển vọng thị trường ngành phân bón nhằm đưa ra những phân tích, dự báo giúp các doanh nghiệp và nông dân đưa ra các quyết định chính xác, kịp thời.Cũng theo, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn do phải nhập khẩu một lượng phân bón lớn nên thị trường phân bón trong nước phụ thuộc rất nhiều vào thị trường phân bón thế giới khiến giá phân bón tăng cao, gây khó khăn lớn cho nông dân Để bình ổn giá phân bón, các chuyên gia cho rằng ngành sản xuất phân bón trong nước cần phải được quan tâm phát triển để tăng sản lượng nhằm chủ động đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, ưu tiên phát triển sản xuất phân lân nung chảy, phân NPK chất lượng cao…. Cụ thể, phân urê Phú Mỹ Đạm Phú Mỹ có giá 535.000 - 540.000 đồng/bao giảm 75.000 - 80.000 đồng/bao so với mức giá hồi tháng 9, urê Trung Quốc cũng giảm 90.000 - 100.000 đồng/bao xuống còn 495.000 - 500.000 đồng/bao. Phân DAP Philippines vào thời điểm giữa tháng 9 có giá dao động từ 940.000 - 950.000 đồng/bao, nay chỉ còn 890.000 - 895.000 đồng/bao, DAP Trung Quốc cũng giảm mạnh xuống còn 780.000 - 800.000 đồng/bao. Các loại phân NPK 20-20-15, NPK 16-16-8, giảm bình quân 100.000 đồng/bao, xuống mức giá lần lượt là 645.000 - 650.000 đồng/bao và 575.000 - 580.000 đồng/bao. Trung tâm Bảo vệ Thực vật phía Nam cho biết, hiện toàn vùng ĐBSCL đã xuống giống được khoảng 170.000 - 180.000ha lúa đông - xuân 2011-2012. Đến cuối tháng 11 này, các địa phương như Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp sẽ đẩy mạnh xuống giống vụ lúa đông - xuân, vì vậy nhu cầu sử dụng phân bón được dự báo sẽ tiếp tục tăng cao. TH.TUYẾT. DVT.vn - Phía Nhật sẽ cung cấp cho công ty 30.000- 40.000 tấn phân bón NPK đồng thời DPM sẽ cung cấp 200.000- 300.000 tấn ure/ năm. Ngày 29/3, Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - PVFCCo Mã: DPM cùng với Tập đoàn Sojitz Nhật bản và công ty Phân bón Việt Nhật JVF – công ty thành viên của Tập đoàn Sojitz đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác cung ứng sản phẩm phân bón.Theo thỏa thuận, mỗi năm JVF sẽ cung cấp cho Tổng công ty 30.000 – 40.000 tấn phân bón NPK chất lượng cao. Ngược lại, PVFCCo sẽ cung cấp cho Sojitz 200.000 – 300.000 tấn urê/năm để xuất khẩu sang Thái hợp quy, phân bón npk Lan, Philippines và các nước khác sau khi đã ưu tiên tiêu thụ đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Sau khi bản ghi nhớ có hiệu lực thì hai bên sẽ tiến hành các hợp đồng thương mại. Bản ghi nhớ có hiệu lực trong 2 năm kể từ ngày kýJVF là công ty liên doanh giữa tập đoàn Sojitz Nhật Bản với một đối tác Viêt nam trong đó tập đoàn Sojitz nắm 75% cổ phần, với sản phẩm chính là phân NPK chất lượng cao. Bên cạnh hợp tác cung cấp sản phẩm, hai bên dự kiến ký hợp đồng dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, theo đó JVF hỗ trợ PVFCCo trong công tác vận hành, bảo trì nhà máy NPK do PVFCCo đầu tư xây dựng. Sau ký kết PVFCCo sẽ có điều kiện mở rộng danh mục sản phẩm của mình bên cạnh sản phẩm truyền thống là phân urê, đồng thời có cơ hội chuẩn bị thị trường cho sản phẩm của nhà máy NPK, dự kiến đi vào hoạt động từ năm 2014.Thùy Trang .. Tại thời điểm kiểm tra, cơ sở chưa xuất trình được hợp đồng phân tích kiểm nghiệm chất lượng phân bón, chưa xuất trình được bằng cấp chuyên môn của cán bộ phụ trách sản xuất. Kiểm tra thực tế, Cty đang sản xuất 2 loại phân bón NPK 10-5-3 trên nhãn ghi sản phẩm của xí nghiệp Việt Pháp, địa chỉ: Km24, QL1A nam Hà Nội”, không ghi ngày sản xuất và phân NPK- S5-10-3-8 trên nhãn bao bì ghi sản phẩm của Cty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao, địa chỉ: Huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ”. Lực lượng chức năng đã lấy mẫu giám định chất lượng 2 loại sản phẩm thành phẩm ở trên và ra quyết định tạm giữ toàn bộ sản phẩm thành phẩm đã đóng bao gồm 140 bao 25kg/bao phân NPK 10-5-3 và 21 bao 25kg/bao phân NPK-S5-10-3-8; 225kg bột nhẹ; 16 chiếc bao bì giả Lâm Thao, 6 tấn phân thành phẩm rời NPK 10-5-3 trong tổng số 60 tấn 54 tấn còn lại giao cho doanh nghiệp bảo quản đến khi có quyết định của cơ quan điều tra. Đồng thời, lực lượng kiểm tra yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng sản xuất đến khi có quyết định của cơ quan kiểm tra. Tiêu hủy 820kg gia cầm nhập lậu. Ngày 10.5, Đội quản lý thị trường số 12 - Chi cục QLTT TPHN - phối hợp với đội Cảnh sát điều tra chống tội phạm về môi trường - Công an quận Thanh Xuân - kiểm tra 2 xe ôtô đang lưu thông trên địa phận xã Phù Đổng Gia Lâm, HN. Lái xe Hà Văn Nam Xương Giang, tỉnh Bắc Giang điều khiển ôtô mang BKS 30P – 3354 chở 1.070 con giống, tương đương 113kg gồm cả vịt, gà giống và lái xe Đào Quốc Việt Tân Việt, Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên điều khiển ôtô BKS 99L-1859 chở 720kg gà, vịt, đều không xuất trình được hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc và không có chứng nhận kiểm dịch động vật. Lực lượng chức năng đã ra quyết định tịch thu, giao cho lực lượng thú y tiêu hủy theo quy định. Hầu hết các loại phân hiện nay đều giảm, đơn cử như phân 25-5- Bình Điền giá bán bằng tiền mặt là 710.000 đồng/bao loại 50kg, trong khi đó trước đây hàng này phải nhập kho với giá 800.000 đồng/bao. Phân DAP hiện nay bán ra cho nông dân 900.000 đồng/bao loại 50kg, trong khi đó trước đây nhập hàng này với giá 1,2 triệu đồng/bao. Urê hiện nay giá 450.000 đồng bao, giảm 40.000 đồng/bao; phân NPK 23-0 hiện nay bán ra 600.000 đồng, giảm 40.000 đồng/bao.Trong khi đó, có đến 70% số phân bón các đại lý bán ra cho nông dân là bán thiếu, sau 3 tháng thu hoạch lúa trả tiền, giá có cao hơn giá bán bằng tiền mặt từ 30.000 - 50.000 đồng/bao.Với giá phân bón giảm mạnh như hiện nay, các đại lý cấp II đang gặp nhiều khó khăn. Cứ 100 tấn phân mua vào trước đây, nay bán ra lỗ trung bình 30 triệu đồng. Khó khăn do lãi suất ngân hàng tăng cao, nông dân không bán được lúa phần lớn chưa trả tiền phân bón vụ trước. Trong khi đó, nếu muốn có phân bón, các đại lý phân bón cấp II phải vay ngân hàng mua bằng tiền mặt. Nhân hội nghị tôi cũng xin có một số ý kiến đề nghị sau: 1. Trên thị trường có rất nhiều loại phân bón với mẫu hop quy, phan bon npk mã, chất lượng chủng loại khác nhau, nông dân rất khó phân biệt được đâu là phân giả, phân thật, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tăng cường công tác kiểm tra, quản lý đối với mặt hàng phân bón và có khuyến cáo đối với nông dân, tránh để nông dân loay hoay trong quá trình lựa chọn sản phẩm để mua được sản phẩm tốt có chất lượng. 2. Cần tăng cường công tác tuyên truyền để nông dân hiểu và biết cách bón phân đúng, mang lại hiệu quả kinh tế cao. 3. Cty CP Supe phốt phát & hóa chất Lâm Thao cần tăng cường thêm các mô hình sử dụng phân bón đồng bộ khép kín, tổ chức các hội nghị hướng dẫn sử dụng phân bón Lâm Thao để nông dân thấy được hiệu quả và áp dụng vào thực tế. Có cơ chế hỗ trợ để nông dân được tiếp cận với phân bón chất lượng tốt với giá hợp lý. 1. Đặc tính và yêu cầu ngoại cảnh Cành quả của na thường mọc trên cành mẹ cành của năm trước. Trên tán cây phần từ giữa trở xuống cành cho quả tốt nhất. Mùa hoa nở nếu gặp hạn, nhiệt độ thấp, mưa nhiều thì đậu quả không tốt. Từ hoa nở đến quả chín trong khoảng 90 - 100 ngày. Na thích khí hậu ấm áp, kém chịu rét, không kén đất. Có thể trồng trên nhiều loại đất, nhưng mức nước ngầm sâu dưới 1 m, tầng đất dày trên 1 m. Đất cát sỏi, đất thịt nặng, đất vỏ sò hến đều trồng được na. Nói chung các loại na chịu khô hạn tốt, nhưng kém chịu úng, trừ cây bình bát nổi tiếng chịu ngập nước. Na rất thích hợp ở các loại đất phát triển trên đá vôi. Na không chịu chua, độ pH thích hợp là 6 - 7. Nếu trồng trên đất vùng đồi nên chọn loại có độ dốc < 150.="" có="" kinh="" nghiệm="" chọn="" đất="" sỏi="" cơm="" là="" tốt="" nhất.="" 2.="" kỹ="" thuật="" trồng="" 2.1.="" nhân="" giống="" -="" gieo="" hạt:="" chọn="" những="" quả="" phẩm="" chất="" tốt="" ở="" những="" cây="" có="" nhiều="" quả.="" chọn="" quả="" ở="" ngoài="" tán,="" quả="" chính="" vụ.="" trước="" khi="" gieo="" có="" thể="" đập="" nhẹ="" cho="" nứt="" vỏ="" hoặc="" lấy="" cát="" khô="" cho="" vào="" túi="" chà="" xát="" cho="" thủng="" vỏ="" để="" hạt="" nhanh="" nảy="" mầm.="" nhân="" giống="" bằng="" hạt="" sẽ="" có="" nhiều="" biến="" dị="" về="" các="" chỉ="" tiêu="" kinh="" tế="" như="" tỷ="" lệ="" đậu="" quả,="" tỷ="" lệ="" hạt="" vỏ="" và="" phần="" ăn="" được,="" phẩm="" chất="" quả…="" nên="" người="" ta="" thay="" thế="" bằng="" các="" phương="" pháp="" nhân="" giống="" vô="" tính="" như="" chiết="" cành,="" giâm="" cành,="" ghép.="" -="" phương="" pháp="" ghép:="" ghép="" mắt="" và="" ghép="" cành="" đều="" được.="" gốc="" ghép="" dùng="" cây="" gieo="" bằng="" hạt="" của="" nó,="" hay="" dùng="" cây="" bình="" bát,="" cây="" nê…="" khi="" đường="" kính="" cây="" đạt="" 8="" -="" 10="" mm="" là="" ghép="" được.="" mắt="" ghép="" lấy="" trên="" các="" cành="" đã="" rụng="" lá.="" nếu="" gỗ="" đủ="" già="" mà="" lá="" chưa="" rụng="" thì="" cắt="" phiến="" lá="" để="" lại="" cuống,="" 2="" tuần="" lễ="" sau="" cuống="" sẽ="" rụng="" và="" có="" thể="" lấy="" mắt="" để="" ghép.="" 2.2.="" trồng="" -="" thời="" vụ:="" hằng="" năm="" trồng="" 2="" vụ,="" vụ="" xuân="" tháng="" 2="" -="" 3,="" vụ="" thu="" tháng="" 8="" -="" 9.="" ở="" miền="" nam="" vào="" đầu="" mùa="" mưa="" tháng="" 4="" -="" 5.="" -="" hố="" trồng="" được="" đào="" rộng="" khoảng="" 0,5="" m,="" sâu="" 0,5="" m="" với="" khoảng="" cách="" 2="" x="" 3="" m,="" mật="" độ="" tương="" ứng="" 1.400="" -="" 1.600="" cây/ha,="" trung="" bình="" là="" 1.500="" cây/ha.="" có="" thể="" trồng="" xen="" vào="" chỗ="" trống="" trong="" vườn="" đã="" có="" cây="" ăn="" quả="" lâu="" năm.="" 3.="" bón="" phân="" npk-s="" lâm="" thao="" 3.1.="" bón="" lót="" hố="" được="" đào="" trước="" khi="" trồng="" 2="" -="" 3="" tháng.="" phân="" hữu="" cơ="" hoai="" mục="" thường="" bón="" 20="" -="" 30="" kg/hố,="" tương="" ứng="" 30="" -="" 45="" tấn/ha.="" bón="" 0,3="" -="" 0,4="" kg="" npk-s="" 5.10.3-8/hố,="" tương="" ứng="" 500="" -="" 600="" kg/ha.="" nếu="" đất="" chua="" bón="" mỗi="" hố="" 0,5="" kg="" vôi="" bột,="" tương="" ứng="" 750="" kg/ha.="" tất="" cả="" trộn="" với="" đất="" mặt,="" bỏ="" vào="" hố="" ủ="" 2="" -="" 3="" tháng="" mới="" đặt="" bầu.="" 3.2.="" bón="" phân="" thời="" kỳ="" kiến="" thiết="" cơ="" bản="" 1="" -="" 3="" năm="" tuổi="" -="" trong="" 1="" -="" 3="" năm="" đầu,="" hàng="" năm="" bón="" 4="" đợt,="" mỗi="" đợt="" cách="" nhau="" 3="" tháng,="" thường="" bón="" vào="" tháng="" 2="" -="" 3,="" 5="" -="" 6,="" 8="" -="" 9,="" 10="" -="" 11.="" nếu="" trời="" không="" mưa="" cần="" tưới="" đủ="" ẩm.="" bón="" cách="" gốc="" 40="" -="" 50="" cm="" theo="" 4="" hốc="" đối="" xứng="" đông-tây-nam-bắc="" hoặc="" theo="" hình="" chiếu="" tán="" nếu="" cây="" đã="" lớn.="" -="" sử="" dụng="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" để="" bón="" với="" liều="" lượng="" mỗi="" đợt="" đều="" bằng="" nhau="" như="" sau:="" đối="" với="" cây="" na="" 1="" tuổi="" thì="" bón="" 0,3="" kg/cây/đợt="" hay="" 1,2="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 450="" kg/ha/đợt="" và="" 1.800="" kg/ha/năm.="" đối="" với="" cây="" na="" 2="" -="" 3="" tuổi="" thì="" bón="" 0,6="" kg/cây/đợt="" hay="" 2,4="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 900="" kg/ha/đợt="" và="" 3.600="" kg/ha/năm.="" -="" năm="" thứ="" 2="" có="" thể="" kết="" hợp="" bón="" phân="" hữu="" cơ="" vào="" đợt="" bón="" thúc="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" cuối="" năm,="" liều="" lượng="" khoảng="" 20="" kg="" phân="" chuồng/cây="" tương="" đương="" 30="" tấn/ha.="" 3.3.="" bón="" phân="" thời="" kỳ="" kinh="" doanh="" -="" trong="" thời="" kỳ="" kinh="" doanh,="" mỗi="" năm="" thường="" bón="" 3="" đợt:="" trước="" ra="" hoa,="" vào="" tháng="" 2="" -="" 3.="" khi="" đã="" có="" quả="" non="" để="" nuôi="" cành,="" nuôi="" quả="" vào="" tháng="" 6="" -="" 7.="" sau="" khi="" thu="" quả="" kết="" hợp="" với="" vun="" gốc="" vào="" tháng="" 9="" -="" 10.="" -="" sử="" dụng="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" để="" bón="" với="" liều="" lượng="" mỗi="" đợt="" bằng="" nhau="" như="" sau:="" đối="" với="" cây="" na="" 4="" -="" 5="" tuổi="" thì="" bón="" 1,5="" kg/cây/đợt="" hay="" 4,5="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 2.250="" kg/ha/đợt="" và="" 6.750="" kg/ha/năm.="" đối="" với="" cây="" na="" 6="" -="" 7="" tuổi="" thì="" bón="" 2,0="" kg/cây/đợt="" hay="" 6,0="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 3.000="" kg/ha/đợt="" và="" 9.000="" kg/ha/năm.="" đối="" với="" cây="" na="" trên="" 8="" tuổi="" thì="" bón="" 2,5="" kg/cây/đợt="" hay="" 7,5="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 3.750="" kg/ha/đợt="" và="" 11.250="" kg/ha/năm.="" -="" cứ="" cách="" 2="" năm="" bón="" 1="" lần="" phân="" hữu="" cơ="" vào="" đợt="" bón="" thúc="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" sau="" khi="" thu="" quả,="" liều="" lượng="" 20="" -="" 30="" kg/cây="" tương="" đương="" 30="" -="" 45="" tấn/ha.="" -="" phân="" bón="" được="" bón="" theo="" hình="" chiếu="" tán,="" đào="" 4="" hốc="" đối="" xứng="" nam-bắc,="" đông-tây="" hay="" cuốc="" rãnh="" hình="" vành="" khăn,="" bỏ="" phân="" vào="" hố="" hoặc="" rãnh,="" lấp="" kín,="" tủ="" gốc="" bằng="" cỏ="" khô,="" lá="" khô="" để="" tạo="" ẩm.="" 4.="" thu="" hoạch="" -="" thu="" làm="" nhiều="" đợt="" khi="" quả="" đã="" mở="" mắt,="" vỏ="" quả="" chuyển="" màu="" vàng="" xanh,="" hái="" quả="" kèm="" theo="" 1="" đoạn="" cuống="" đem="" về="" dấm="" trong="" vài="" ba="" ngày="" quả="" mềm="" là="" ăn="" được.="" -="" mùa="" na="" chín="" từ="" tháng="" 6="" đến="" tháng="" 9,="" ở="" miền="" nam="" thu="" hoạch="" sớm="" hơn="" miền="" bắc.="" chúc="" bà="" con="" trồng="" na="" sử="" dụng="" phân="" bón="" npk-s="" lâm="" thao="" áp="" dụng="" thành="" công="" một="" số="" biện="" pháp="" kỹ="" thuật,="" trong="" đó="" có="" sử="" dụng="" các="" loại="" phân="" bón="" npk-s="" để="" thu="" được="" năng="" suất="" và="" chất="" lượng="" quả="" na="" cao,="" đáp="" ứng="" nhu="" cầu="" của="" người="" tiêu="" dùng="" trong="" và="" ngoài="">
III. Dấu CR Quacert Trung tâm chứng nhận QUACERT không cấp quyền sử dụng dấu hợp quy không có số
Theo ông Tường, nhu cầu nhập khẩu phân bón NPK và phân lân nung chảy từ các nước Malaysia, Indonesia đang rất cao. Vì vậy quy định tạm dừng xuất khẩu phân bón như hiện nay đang hạn chế việc cân đối nhập xuất của doanh nghiệp. Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón VN, cho biết: Cách đây 3 tháng, giá thế giới của phân urê 850 USD/tấn, hiện nay còn trên 200 USD/tấn; phân DAP từ 1.100 USD - 1.200 USD/tấn, giảm còn 500 USD/tấn; phân SA từ 440 USD/tấn giảm còn 145 USD/tấn. Tương tự, giá nguyên liệu phục vụ sản xuất phân bón cũng giảm như lưu huỳnh từ 1.000 USD/tấn giảm còn 50 USD/tấn. Giá phân bón trong nước hiện nay cũng giảm đáng kể. Nhu cầu phân bón cho sản xuất vụ Đông - Xuân năm nay chỉ khoảng 3,1 triệu tấn, giảm gần 1 triệu tấn so với các năm trước. Trong đó, các doanh nghiệp trong nước đã sản xuất được phân NPK bảo đảm nhu cầu; còn lại chỉ phải nhập khẩu 50% phân u rê và 100% phân DAP, SA, ka li. Đó là dấu hiệu đáng mừng đối với người nông dân, nhưng DN sản xuất phân bón thì sập tiệm do lượng phân bón nhập từ thời kỳ giá đắt còn tồn kho quá nhiều. Theo báo cáo không chính thức của các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón và Hiệp hội Phân bón Việt Nam, lượng phân urê, DAP, kali và SA nhập khẩu còn tồn kho tổng cộng 1 triệu tấn. Trong đó, u rê là 388.000 tấn; DAP là 161.000 tấn; SA là 210.000 tấn và ka li là 241.000 tấn. Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón, nếu tính cả phân NPK sản xuất trong nước, thì con số tồn có thể lên tới 2 triệu tấn. Nguyên nhân khiến hàng tồn đọng nhiều và giá xuống thấp là do ảnh hưởng chung của khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh phân bón ở trong thế tiến thoái lưỡng nan là do không lường được sự biến động của thị trường. Khi phân bón sốt giá, nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đã nhận định rằng mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng và có một mặt bằng giá mới, vì vụ Đông - Xuân của nước ta trùng với một số nước sử dụng lượng phân bón nhiều như Ấn Độ, Trung Quốc..., nên các doanh nghiệp đã tìm cách mua phân bón và nguyên liệu sản xuất dự trữ ngay cả ở thời điểm giá cao chót vót. Với giá cả các loại phân bón như hiện nay, nhiều doanh nghiệp phân bón hop quy, phan bon npk đang bị lỗ nặng, doanh nghiệp lỗ nhiều nhất lên tới gần một nghìn tỷ đồng. Vì vậy, dù đang tồn đọng nhiều, nhưng giá phân bón trong nước vẫn còn ở mức cao so với thị trường thế giới. Theo tính toán, giá phân u rê cao hơn 1.500-2.300 đồng/kg; phân DAP, ka li cao hơn từ 1.500-5.500 đồng/kg so với thị trường thế giới. Đối với các mặt hàng phân NPK được sản xuất hoàn toàn ở trong nước, hiện chỉ mới giảm giá khoảng 20% dù giá nguyên liệu giảm đến 60%. Đó là chưa kể khó khăn do nông dân không bán được lúa nên không có tiền mua phân bón. Để giải cứu các doanh nghiệp, Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã kiến nghị Chính phủ các biện pháp như giãn nợ, giảm thuế thu nhập, giảm lãi suất ngân hàng cho doanh nghiệp. Vừa qua, Bộ Tài chính đã chính thức bỏ thuế tuyệt đối thuế xuất khẩu các loại phân bón 4.000-5.000 đồng/kg tạo lối thoát cho các doanh nghiệp. Bộ NN&PTNT cũng đã đề nghị Chính phủ chỉ đạo ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón giãn nợ đối với khoản vay dùng để nhập khẩu lượng phân đang tồn kho đến hết quý I-2009 và tiếp tục cho vay để doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên, giải pháp hiệu quả nhất là Nhà nước nên tập trung hỗ trợ cho nông dân vượt qua những khó khăn thông qua các chương trình kinh tế xã hội, thành lập quỹ bình ổn giá cả…, từ đó gián tiếp kích cầu thị trường phân bón. Ngoài ra, cơ quan chức năng cần phải chấn chỉnh việc cấp giấy phép sản xuất phân bón; đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, quy trình canh tác tiên tiến vào sản xuất để nông dân sử dụng phân bón hiệu quả nhất. Tính chung 11 tháng so với cùng kỳ, phân NPK ước đạt trên 2,2 triệu tấn, giảm 3,0%; phân DAP ước đạt 210.000 tấn, giảm 19,2%; riêng sản lượng phân urê ước đạt gần 1,9 triệu tấn, tăng 19,8%. Tại thời điểm này, nguồn cung phân bón thế giới giảm Trung Quốc và Ai Cập đang khó khăn về cung khí đốt tự nhiên cho sản xuất phân bón nhưng nguồn cung trong nước lại lớn hơn cầu tồn kho trong sản xuất mỗi lúc một cao: Phân urê ước khoảng 245.300 tấn; phân DAP khoảng 53.500 tấn.... Hiện giá phân urê Phú Mỹ từ đại lý cấp 1 phân phối đến đại lý cấp 2 hoặc bán cho nông dân có giá 8.400-8.600 đồng/kg, còn nhà máy bán cho đại lý 7.400-7.600 đồng/kg, tăng bình quân 200 đồng/kg so với cách đây 1 tháng; giá phân urê hạt đục Cà Mau dao động từ 7.800-8.300 đồng/kg tại các tỉnh phía Nam. Để đẩy mạnh sản xuất, hiện các doanh nghiệp ngành phân bón đã triển khai nhiều hoạt động nhằm cung cấp thông tin giúp bà con nông dân tiết kiệm chi phí đầu vào, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật một cách cân đối và hợp lý. Linh Đan. Tại thời điểm này, nguồn cung thế giới giảm do Trung Quốc và Ai cập đang khó khăn về cung khí đốt tự nhiên cho sản xuất phân bón, nhưng nguồn cung trong nước lại lớn hơn cầu. Tồn kho trong sản xuất mỗi lúc một cao: phân urê ước khoảng 245,3 nghìn tấn; phân DAP khoảng 53,5 nghìn tấn... Lượng phân urê nhập khẩu về Việt Nam chủ yếu qua đường tiểu ngạch Trung Quốc cũng giảm đáng kể do các đầu nậu lo ngại không cạnh tranh được với hàng trong nước, ngay cả khi giá hạ. Hiện giá phân urê Phú Mỹ từ đại lý cấp 1 phân phối đến đại lý cấp 2 hoặc bán cho nông dân có giá 8.400 - 8.600 đồng/kg, nhà máy bán cho đại lý 7.400 - 7.600 đồng/kg, tăng bình quân 200 đồng/kg so với cách đây 1 tháng .. Ông Lương Bắc Thái khẳng định, sản phẩm NPK Giải Phóng chưa bao giờ được bán tại khu vực Quảng Trị và Đắk Lắk. Chính vì vậy, việc trưởng thôn Nguyễn Văn Năm cho rằng phân bón NPK Giải Phóng gây thiệt hại cho 2 tỉnh này là hành vi vu khống trắng trợn. Hiện nay, do đã vào cuối vụ hè thu ở các tỉnh phía nam và cuối vụ lúa mùa ở các tỉnh phía bắc, nhu cầu sử dụng phân bón giảm. Từ đầu năm đến nay, lượng phân u-rê nhập khẩu đạt 768.000 tấn, tăng 36,49% so với cùng kỳ năm 2008. Đặc biệt, thời điểm Trung Quốc giảm thuế xuất khẩu phân bón theo đường tiểu ngạch còn 0%, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu ồ ạt. Trong khi đó, năng lực sản xuất trong nước ngày càng tăng và lượng phân u-rê tồn kho từ các vụ trước còn hàng trăm nghìn tấn.Trong kinh doanh phân bón, doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu tùy theo nhu cầu sản xuất. Tuy nhiên, trong những năm trước đây khi xuất khẩu phân bón, các doanh nghiệp nhất thiết phải có giấy phép xuất khẩu để Nhà nước điều hành cung - cầu. Nay tình hình đã khác. Theo Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam Nguyễn Hạc Thúy, hiện nay Việt Nam đã tự túc được 50% nhu cầu phân đạm, 100% phân lân nung chảy và phân NPK. Vì vậy, phân bón là thị trường nhạy cảm, giá thay đổi từng ngày, nếu không nhanh nhạy, cho phép doanh nghiệp tái xuất khẩu thì các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ mất chi phí lưu kho, đọng vốn. Khi lượng phân bón trong nước dư thừa việc tồn tại giấy phép phân bón không còn phù hợp.Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thị trường phân bón đã có nhiều thay đổi. Trước đây, các doanh nghiệp thường nhập khẩu từ thị trường Trung Đông, Nga, Mỹ, nhưng hiện nay, Trung Quốc đã trở thành thị trường nhập khẩu chính. Do vậy, thời gian vận chuyển hàng đã giảm đáng kể. Hơn nữa, lượng phân u-rê sản xuất trong nước ngày càng tăng. Trong cơ chế thị trường, nên để doanh nghiệp được tái xuất phân bón tự do. Nhà nước chỉ nên can thiệp, hạn chế nhập khẩu trong trường hợp thị trường phân bón biến động mạnh, khan hiếm hàng, không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp trong nước. Về phía Bộ Công thương, đại diện Vụ Xuất nhập khẩu đơn vị trực tiếp xem xét việc cấp giấy phép xuất khẩu phân bón đã đề nghị Bộ Công thương trình lên Chính phủ bãi bỏ quy định về giấy phép xuất khẩu phân bón.Theo chúng tôi việc bỏ giấy phép xuất khẩu phân bón vào thời điểm hiện nay là phù hợp, thể hiện vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước đối với mặt hàng nông nghiệp quan trọng này. Tuy nhiên các cơ quan chức năng cũng cần tăng cường quản lý việc sản xuất, kinh doanh phân bón; chống tình trạng sản xuất, kinh doanh phân bón giả, nhái nhãn mác, kém chất lượng, bảo đảm lợi ích của nông dân. Bởi trong thời gian qua, tình trạng tràn lan trên thị trường các loại phân bón giả, kém chất lượng không chỉ gây bức xúc cho nông dân mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh phân bón.HOÀNG HÙNG. Nhà máy gồm một dây chuyền sản xuất phân bón hỗn hợp NPK theo công nghệ tạo hạt bằng hơi nước và urê tan chảy. Theo các chuyên gia, đây là một trong bốn nhà máy sản xuất phân bón tổng hợp NPK tiến tiến nhất Việt Nam hiện nay. Sau tám tháng thi công, Nhà máy sản xuất phân bón NPK Sao Việt hoàn thành và đi vào hoạt động từ tháng 12 năm 2010. Trong hai tháng đầu năm 2011, Nhà máy đã sản xuất 5.000 tấn phân bón NPK và được chào đón, tiếp nhận của thị trường các tỉnh từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận và khu vực Tây Nguyên. Được biết, ngay sau khi khánh thành Nhà máy, Binh đoàn 15 Bộ Quốc phòng đã đặt mua 4000 tấn NPK Sao Việt bón cho cây cao su. Để kịp cung ứng cho nông dân trên địa bàn SX vụ hè thu năm nay, HTXNN phường Bình Định lên kế hoạch mua 850 tấn phân NPK. Trước khi tiến hành cuộc mua bán, ngày 18/5, lãnh đạo HTXNN có cuộc làm việc với lãnh đạo Phòng Giao dịch An Nhơn xin vay gần 12 tỷ đồng với hình thức tín chấp lô hàng và thời gian thanh toán rất cụ thể. Bà Nguyễn Thị Hằng, Trưởng phòng Giao dịch An Nhơn thống nhất theo chủ trương mới của Ngân hàng Nhà nước. Sau khi phía Cty CP Phân bón Bình Điền đồng xuất số lượng phân đầu tiên, lãnh đạo HTXNN phường Bình Định mang tờ trình ra Phòng Giao dịch An Nhơn làm thủ tục giải ngân số tiền vay đợt đầu là 6 tỷ đồng bằng hình thức tín chấp số lượng phân đang tồn kho cả số phân sắp mua về có trị giá 18 tỷ đồng. Ngay ngày hôm sau 18/5, HTXNN phường Bình Định tiến hành thuê tàu vận tải biển Hoàng Bảo 07 trực chỉ” Long An để nhận hàng. Kho phân mua bằng tiền vay của ngân hàng được niêm phong Sáng 19/5, tàu Hoàng Bảo 07 cập cảng Thành Tài Long An, thế nhưng đến lúc này HTXNN phường Bình Định vẫn chưa được Ngân hàng Công thương phòng Giao dịch An Nhơn giải ngân số tiền theo kế hoạch. Tàu Hoàng Bảo 07 đành neo cảng nằm chờ. Không có tiền, Cty CP Phân bón Bình Điền không xuất kho. Ông La Văn Tám, Chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định bức xúc kể lại: Mặc dù mọi thủ tục giữa HTX và Phòng Giao dịch An Nhơn đã hoàn tất nhưng cứ bị niêm”, lãnh đạo không chịu hạ bút ký. Bí quá, chúng tôi phải chạy đôn đáo kiếm tiền thanh toán để Cty CP Phân bón Bình Điền giao hàng. Sau đó, nóng ruột quá, tôi tiếp tục làm việc với bà Trưởng phòng Giao dịch An Nhơn Nguyễn Thị Hằng thì bỗng dưng bà ấy trở mặt”, bảo hàng nhập kho mới giải ngân”. Vậy nhưng lời nói gió bay”, ngày 25/5, số lượng phân NPK HTXNN phường Bình Định mua của Cty CP Phân bón Bình Điền được chở về đến nơi. 15 chiếc xe tải chở đầy ắp những bao phân đậu nối đuôi từ QL 1A vào đến sân kho HTX, ông chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định La Văn Tám ra Phòng Giao dịch An Nhơn mời bà Nguyễn Thị Hằng vào mục sở thị”. Sau khi tận mắt nhìn thấy số hàng mới được mua nhập vào kho HTX, bà Hằng lẳng lặng hop quy, phan bon npk không có ý kiến gì. Cứ ngỡ thế là ổn, sau khi nhập xong số hàng nói trên, ngày 28/5, lãnh đạo HTXNN phường Bình Định lại đến Phòng Giao dịch An Nhơn để xin giải ngân. Không ngờ bà Trưởng phòng Nguyễn Thị Hằng phán một câu tựa như gáo nước lạnh Do HTX sai quy trình về kho nên lãnh đạo Ngân hàng Công thương chi nhánh Phú Tài TP Quy Nhơn không đồng ý giải ngân”. Quá bức xúc, ngay chiều 28/5, ông La Văn Tám, Chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định gọi điện đăng ký làm việc với lãnh đạo Ngân hàng Công thương Chi nhánh Phú Tài, và được ông GĐ chi nhánh đồng ý sáng hôm sau 29/5 làm việc trực tiếp. Thành phần tham gia buổi làm việc có cả bà Hằng, Trưởng phòng Giao dịch An Nhơn. Tại buổi làm việc, ban Giám đốc Ngân hàng Công thương chi nhánh Phú Tài thống nhất cao việc giải ngân cho HTX, tạo điều kiện thuận lợi cho HTXNN phường Bình Định kịp phục vụ cho nông dân SX vụ hè thu, không hề có gì rắc rối như bà Hằng nói trước đó. Đến lúc này, bà Trưởng phòng Giao dịch An Nhơn mới buông lời hứa chiều ngày 29/5 sẽ cử người vào kiểm tra kho và cử vệ sỹ đến giữ kho, bảo quản số hàng tín chấp tiến hành làm thủ tục giải ngân. Thế nhưng cả buổi chiều hôm ấy, cả ban chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định trông đứng trông ngồi vẫn chẳng thấy bóng dáng ai. Hôm đó tui đã nghĩ đến chuyện sáng hôm sau sẽ mặc áo dài khăn đóng ra quỳ lạy” lãnh đạo Ngân hàng Công thương Phòng Giao dịch An Nhơn để từ giã luôn”, Chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định bộc bạch. Tuy nhiên, sáng 30/5 Phòng Giao dịch An Nhơn cử cán bộ và vệ sỹ vào làm thủ tục. Đến chiều 31/5, HTXNN phường Bình Định mới được giải ngân số tiền là 965 triệu đồng với số hàng tín chấp có trị giá hơn 3 tỷ đồng! Gần 15 năm chúng tôi đặt mối quan hệ làm ăn với Ngân hàng Công thương Phòng Giao dịch An Nhơn, chưa bao giờ chúng tôi có nợ xấu. Chúng tôi luôn trả nợ vay trước hạn chứ không bao giờ để quá hạn. Thế nhưng không hiểu sao, từ khi phòng giao dịch thay ngôi đổi chủ”, chúng tôi cũng bị thay đổi cách đối xử đột ngột đến như vậy”, ông La Văn Tám, Chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định. Cũng theo ông La Văn Tám, ngay từ năm 1997, HTXNN phường Bình Định đã làm đại lý cấp 1 của Cty CP Phân bón Bình Điền Long An với doanh số mua hàng hằng năm lên đến 50-70 tỷ đồng. Từ đó, vốn hoạt động dịch vụ cung ứng VTNN cho nông dân, HTXNN phường Bình Định hầu như trông cậy cả vào Ngân hàng Công thương Phòng Giao dịch An Nhơn, và mọi cuộc giao dịch đều thuận lợi. Riêng trong năm 2011, Phòng Giao dịch An Nhơn giải ngân cho HTX chỉ 1 lần mà số tiền lên đến 12 tỷ đồng để HTX mua phân. Thế nhưng sang năm 2012, khi Ngân hàng Công thương Phòng Giao dịch An Nhơn thay đổi lãnh đạo, HTXNN phường Bình Định lập tức lâm cảnh lao đao. Vay được đồng tiền đã khó, việc xuất bán lô hàng tín chấp còn khó hơn. Ông Chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định tâm sự: Khi muốn xuất bán lô hàng tín chấp, chúng tôi phải có tiền mặt để nộp trước cho phòng giao dịch tương ứng số hàng sẽ xuất kho rồi mới được bán hàng. Cũng không phải muốn bán lúc nào thì bán, họ khống chế mỗi tuần chỉ được xuất bán 2 lần. Trong khi đó nhu cầu mua hàng của khách hàng diễn ra hàng ngày để kịp cung ứng cho nông dân SX. Mua bán kiểu này khó thật”. Điều chúng tôi lấy làm lạ là hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định, có không ít doanh nghiệp đang bên bờ vực phá sản nhưng hiện vẫn không khó tiếp cận với đồng vốn vay của ngân hàng. Trong khi đó, dù chỉ là 1 đơn vị HTX nhưng HTXNN phường Bình Định bằng sự năng động luôn ăn nên làm ra. Lẽ ra, đơn vị này phải được các ngân hàng xem là khách hàng vip” trong thời điểm này chứ có đâu bị ghẻ lạnh đến vậy! .
Phân bón khi hòa tan vào nước thì thành bùn và đất sét - Ảnh: Phương Nam Trước đó, Công ty CP phân bón Bình Điền - đơn vị sản xuất loại phân bón này đã kiểm tra thực tế và khẳng định đây là hàng giả nên đã đề nghị Chi cục QLTT Bình Định phối hợp kiểm tra, tạm giữ 25 bao tại Công ty Anh Trang. Làm việc với cơ quan chức năng tỉnh Phú Yên, đại diện Công ty Anh Trang cũng đã chấp nhận thu hồi lại toàn bộ số phân bà con nông dân Xuân Quang 1 chưa sử dụng và cam kết bồi hoàn thiệt hại. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Trang, Giám đốc Công ty Anh Trang, cũng cho biết nguồn gốc phân bón mua hợp pháp của 3 doanh nghiệp tại Bình Định gồm Công ty TNHH Hồng Nhung và Công ty TNHH thương mại Hà Ẩn cùng đóng trên địa bàn H.Tuy Phước và DNTN thương mại và dịch vụ Hoàng Nhân TX.An Nhơn. Đội QLTT chống hàng giả của Chi cục QLTT tỉnh Bình Định cũng xác định các doanh nghiệp xuất bán phân bón cho Công ty Anh Trang đều có hóa đơn hợp lệ và là hàng chính hãng của Công ty CP phân bón Bình Điền. Chúng tôi đã lấy mẫu gửi đi xét nghiệm, sau khi có kết quả mới có căn cứ xử lý”, ông Nguyễn Thế Vinh, Phó chi cục trưởng Chi cục QLTT Bình Định, cho biết. Hoàng Trọng - Đức Huy. Sau rất nhiều năm chỉ tập trung sản xuất kinh doanh phân đạm, vì sao đến nay PVFCCo lại bước chân vào lãnh địa phân NPK?- Lùi trở lại cách đây gần chục năm, khi đó Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào phân bón nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó phân đạm là loại phân quan trọng nhất. Chính vì thế Chính phủ và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã quyết định xây dựng Nhà máy Đạm Phú Mỹ sản xuất phân đạm, với nguồn nguyên liệu là khí đồng hành từ các mỏ dầu của ta đang khai thác và giao cho PVFCCo quản lý và điều hành nhà máy.Việc bón phân NPK hợp lý sẽ tăng năng suất của cây trồng.Như thế ngay từ đầu phân đạm là sản phẩm chủ chốt của PVFCCo, và PVFCCo tập trung vào sản phẩm này, chưa mở rộng sang các sản phẩm khác, các lĩnh vực kinh doanh khác, mặc dù chiến lược đa dạng hóa sản phẩm đã được đề ra từ lâu.Ông Nguyễn Hồng VinhKhi sản phẩm Đạm Phú Mỹ đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường, đồng thời Nhà máy Đạm Phú Mỹ đã khấu hao xong, tạo cho Tổng Công ty một nguồn tài chính dồi dào, Tổng Công ty mới bắt tay triển khai chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, trước hết là với sản phẩm phân NPK Phú Mỹ. Bước đi này cũng đáp ứng yêu cầu của các cổ đông là mở rộng kinh doanh để sử dụng hiệu quả nguồn tiền mặt thông qua đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm.Công suất chung các nhà máy sản xuất NPK ở Việt Nam được đánh giá đã vượt xa nhu cầu, như thế có mạo hiểm không khi PVFCCo vẫn đầu tư vào lĩnh vực này?- Thực ra, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập khẩu khoảng 250 - 300 nghìn tấn NPK chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường. Khi chuẩn bị dự án xây dựng Nhà máy NPK, chúng tôi đã nghiên cứu kỹ thị trường NPK trong nước và thấy thị trường này còn rất nhiễu loạn do sự hiện diện của các loại phân NPK kém chất lượng, thậm chí là giả hoàn toàn, được làm từ đất, gạch nghiền vụn v.v..., gây nhiều thiệt hại cho bà con nông dân.Như vậy, thị trường NPK thực chất chỉ thừa hàng kém chất lượng và vẫn thiếu sản phẩm NPK có chất lượng, đảm bảo hiệu quả sử dụng. Mục tiêu của chúng tôi là muốn cung cấp ra thị trường các dòng sản phẩm NPK có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Việc tung ra thị trường nguồn phân NPK chất lượng cao sẽ góp phần đẩy lùi hàng giả, hàng kém chất lượng.PVFCCo có cách gì để khắc phục tình trạng nhiễu loạn hàng nhái, hàng giả, nhập nhằng hàm lượng… đang để lại ấn tượng không tốt về mặt hàng NPK nói chung?- Đúng, tình trạng nhiễu loạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng đang là vấn nạn chung của thị trường và chúng tôi đang tích cực tham gia đẩy lùi vấn nạn này không những chỉ đối với sản phẩm NPK mà còn cả sản phẩm phân đạm. Việc tham gia cung cấp sản phẩm NPK Phú Mỹ đảm bảo chất lượng cũng là góp phần đẩy lùi vấn nạn trên.Sản phẩm NPK Phú Mỹ, cũng như đạm Phú Mỹ, được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến, đảm bảo chất lượng ổn định. Hàng được đóng trong bao bì có thiết kế riêng, với các đặc điểm nhận diện rõ ràng để chống hàng giả, hàng nhái.Sinh sau đẻ muộn, NPK Phú Mỹ sẽ làm gì để tiếp cận với nông dân, người trực tiếp sử dụng phân bón?- Ưu thế lớn nhất của NPK Phú Mỹ chính là sản phẩm được sản xuất và phân phối bởi PVFCCo, là nhà sản xuất và kinh doanh phân bón uy tín trên thị trường. Nếu trong mắt người nông dân đạm Phú Mỹ đồng nghĩa với hàng chất lượng cao, đủ trọng lượng, giá cả niêm yết rõ ràng, thì NPK Phú Mỹ cũng vậy.Ưu thế tiếp theo là hệ thống phân phối rộng khắp cả nước, với gần 100 đại lý cấp 1, gần 3.000 đại lý cấp 2. PVFCCo có chính sách giá cả và hỗ trợ bán hàng hợp lý, trên cơ sở ba bên – công ty, đại lý và nông dân – cùng có lợi. Song song với việc bán hàng, chúng tôi cũng triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân để sản phẩm có thể mang lại hiệu quả tối ưu.Chúng tôi lại có ưu thế tuyệt đối về mặt công nghệ. Thị trường NPK Việt Nam hiện nay chủ yếu là NPK 3 màu, là hỗn hợp của 3 loại phân riêng biệt chứa đạm, lân và kali. Trong khi đó, sản phẩm NPK Phú Mỹ là sản phẩm 3 trong 1, tức là trong 1 hạt chứa cả 3 loại dưỡng chất đạm, lân và kali, ngoài ra còn bổ sung thêm một số chất khác nữa như lưu huỳnh v.v... Nhờ đó, cây trồng hấp thu dưỡng chất từ phân bón được đều hơn, cân đối hơn, hiệu quả hơn.Xin ông cho biết hướng phát triển tiếp theo của ngành hàng NPK Phú Mỹ?- Trước mắt chung tôi mới đang giới thiệu sản phẩm NPK Phú Mỹ với công thức 16-16-8-13S, là công thức đang sử dụng phổ biến trên thị trường. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục kết hợp với các viện, trường để nghiên cứu đưa các sản phẩm đặc thù hơn với các công thức phù hợp hơn. Song song đó, Tổng Công ty đang triển khai dự án xây dựng nhà máy NPK công suất 400 nghìn tấn/năm bên cạnh Nhà máy Đạm Phú Mỹ, dự kiến khởi công vào quý 3/2011 và bắt đầu cho ra sản phẩm vào cuối năm 2013.Lưu Phan thực hiện. Theo ước tính của Hiệp hội Phân bón, nhu cầu phân bón vụ đông xuân hop quy, phan bon npk tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ 700.000 - 800.000 tấn, nhưng lượng phân bón nhập khẩu hiện tồn kho gần 1 triệu tấn, phân bón trong nước sản xuất cũng tồn kho 1 triệu tấn. Dù cung” đang vượt cầu”, nhưng giá trong nước vẫn cao ngất ngưởng, bất chấp giá thế giới đang giảm mạnh. Giá quá cao so với thế giới Ông Nguyễn Hạc Thúy, Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón cho biết: Cách đây 3 tháng, giá thế giới của urê là 850 USD/tấn, nay giảm còn 200 USD/tấn; phân DAP từ 1.100 USD - 1.200 USD/tấn, giảm còn 500 USD/tấn; phân SA từ 440 USD/tấn giảm còn 145 USD/tấn. Tương tự, giá nguyên liệu phục vụ sản xuất phân bón cũng giảm đáng kể như lưu huỳnh từ 1.000 USD/tấn giảm còn 50 USD/tấn. Như vậy, giá urê nhập ngoại hiện khoảng 3.500 đ/kg; DAP, kali khoảng 8.500 đ/kg. Tuy nhiên, giá phân bón trong nước mới chỉ giảm nhỏ giọt và còn cách biệt nhiều so với giá thế giới. Chẳng hạn, giá phân DAP từ 10.000 - 13.000 đồng/kg, urê 5.300 đồng/kg, kali 10.000 đồng/kg. Theo nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực này, các mặt hàng phân NPK hiện chỉ mới giảm giá khoảng 20% dù giá nguyên liệu giảm đến 60%. Tại Đồng Tháp, thời điểm này năm ngoái, người mua đã tấp nập, hàng lấy về không kịp bán còn bây giờ thì rất ít người mua, do giá phân bón quá cao nên nông dân chưa thể mua dù thực tế lúa vụ đông xuân đang đói” phân bón.Nhiều nông dân đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt với nhiều khó khăn từ việc không tiêu thụ được lúa của 2 vụ trước và nợ ngân hàng nên không thể tiếp tục mua chịu phân bón, thuốc trừ sâu của đại lý. Nhập giá cao nên không thể bán giá thấp? Theo ông Lê Quốc Phong, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón VN, các doanh nghiệp DN sản xuất, kinh doanh phân bón đang bị lỗ nặng. DN nhỏ lỗ khoảng vài chục tỉ đồng, còn DN lớn ít nhất cũng lỗ cả trăm tỉ đồng. Nguyên nhân do không dự báo được biến động của thị trường phân bón nên nhiều đơn vị đã nhập nguyên liệu từ giữa năm với giá cao trong khi hiện nay, giá thế giới đã giảm hơn phân nửa. Nếu muốn giải phóng hàng, cắt lỗ, DN phải giảm giá bán. Tuy nhiên, đến nay phần lớn các DN phân bón chưa giảm giá vì họ cho rằng đã nhập nguyên liệu giá cao nên không thể bán giá thấp. Khi nào tiêu thụ hết lượng hàng tồn kho thì mới tính đến phương án giảm giá phân bón. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt Bộ NN-PTNT, cho biết: Các DN đề nghị giảm thuế xuất khẩu, bỏ hạn ngạch xuất khẩu phân bón để giải quyết lượng phân bón còn tồn đọng nhằm thu hồi vốn, cắt lỗ.Tuy nhiên, để bảo đảm đủ phân bón phục vụ cho nông nghiệp, không thể bỏ hạn ngạch cũng như giảm thuế suất. Bên cạnh đó, bộ cũng đã đề xuất dãn nợ, dãn thời gian nộp thuế cho các DN sản xuất, kinh doanh phân bón; đồng thời đề nghị Chính phủ dãn nợ và thu mua lượng lúa tồn đọng để nông dân có thể mua phân bón phục vụ vụ mùa. Song, điều quan trọng nhất là các DN nên làm quen với quy luật giá cả phù hợp với diễn biến của thị trường. Nhập khẩu phân bón tăng 35,6% về số lượng và giảm 57,4% về trị giá. Hiện nay, giá các mặt hàng phân bón đã giảm từ 2- 3% so với thời điểm cuối năm 2014. Nguyên nhân chính là do tác động của điều chỉnh giảm giá xăng dầu. Bên cạnh đó, nguồn cung phân bón trong nước đang vượt cầu, nhất là phân bón urê.V.H.. NPK Phú Mỹ có công thức 16-16-8-13S, đóng bao theo trọng lượng 50kg/bao, được sản xuất theo công nghệ tiên tiến, kết hợp với ba nguyên tố đạm N, lân P và kali K có bổ sung nguyên tố lưu huỳnh S. Sản phẩm này được sản xuất tại nhà máy của công ty Phân bón Việt-Nhật, theo đơn đặt hàng của Tổng Công ty. Dự kiến lượng tiêu thụ từ nay đến cuối năm khoảng 36.500 tấn. Với việc đưa ra sản phẩm mới này, Tổng Công ty bắt đầu triển khai kế hoạch chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, nỗ lực cung cấp cho thị trường nguồn phân NPK chất lượng cao, góp phần từng bước đẩy lùi các sản phẩm NPK kém chất lượng vốn gây nhiều thiệt hại cho nông dân. Đây cũng là bước đầu tiên trong quá trình chuẩn bị thị trường cho dãy sản phẩm của Nhà máy NPK do Tổng công ty làm chủ đầu tư, nhà máy này có công suất 400.000 tấn, tổng vốn đầu tư khoảng 63 triệu USD, sử dụng công nghệ phối trộn hạt, ve viên nóng chảy thùng quay để tạo hạt nhân NPK có chất lượng cao. Dự kiến nhà máy sẽ được khởi công trong quý 3/2011 và hoàn thành vào năm 2013./. Hà Huy Hiệp TTXVN/Vietnam+. - Chủng loại phân bón: Dùng phân đa yếu tố ĐYT NPK chuyên dùng cho cây lúa:+ Bón lót : Bằng phân ĐYT NPK 6.11.2 chuyên dùng bón lót cho lúa dạng trộn trộn 3 hạt. Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=6%, P2O2=11%, K2O=2%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=10%, CaO=20%, SiO2=15% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%.+ Bón thúc: Bằng phân ĐYT NPK 16.5.17 chuyên dùng bón thúc cho lúa dạng trộn 3 hạt. Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=16%, P2O5=5%, K2O=17%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=5%, CaO=8%, SiO2=7% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%.- Mức bón kg/sào 360m2:1. Đối với lúa Xuân:2. Đối với lúa mùa:- Cách bón:1. Bón lót: - Đối với lúa cấy: Bón lúc bừa hoặc trước khi bừa lần cuối, cùng với phân chuồng để vùi sâu phân xuống dưới, sau đó để lắng đất, gạn bớt nước trong rồi mới cấy. Trường hợp nước lớn, ruộng có bờ bao, nước không chảy vẫn bón bình thường, lưu ý tránh không để chảy mất nước đục sẽ mất phân.- Đối với lúa gieo sạ: Bón ngay khi bừa chít trước khi lên luống gieo sạ. Nếu không có phân chuồng thì bón tăng lượng phân ĐYT NPK 6.11.2 bón lót thêm 2-3 kg/sào.2. Bón thúc: - Đối với lúa cấy: Trong vụ xuân, bón thúc ngay khi lúa ra lá mới lá nõn dong; trong vụ mùa, bón sau cấy 7- 10 ngày.- Đối với lúa gieo sạ: Trong vụ xuân, bón khi cây lúa có 3,5 – 4 lá lúa bắt đầu đẻ nhánh; trong vụ mùa, bón khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh.Chỉ ở những chân ruộng mỏng mầu, rão nước, cát pha thì mới phải bón thúc lần 2 vào thời kỳ đón đòng, dùng 4kg - 5kg NPK 16.5.17 để thúc vào buổi chiều tạnh nắng, tuyệt đối không để phân dính trên lá. Lưu ý: Sử dụng phân ĐYT NPK chuyên dùng cho lúa giúp cây lúa khỏe, chống đổ tốt, đẻ nhánh tập trung, số dảnh hữu hiệu cao, lá đòng bền, có màu xanh vàng sáng, hạt mẩy, vỏ hạt sáng, ít sâu bệnh, năng suất cao, cải thiện độ chua của đất, hạn chế rong rêu, giảm lượng vôi bón ở chân ruộng chua, trũng. Sử dụng phân ĐYT NPK Văn Điển chuyên dùng cho lúa theo đúng chỉ dẫn không phải bón thêm bất kỳ loại phân nào khác, là chìa khóa để đạt được hiệu quả thâm canh cao. Lực lượng QLTT kiểm tra cơ sở kinh doanh phân bón kém chất lượng tại Thanh Hóa CôngThương - Liên tiếp vi phạm Mới đây nhất, ngày 22/5, Chi cục Quản lý thị trường QLTT Thanh Hóa đã phát hiện tổng cộng 7 tấn phân bón giả và kém chất lượng. Cụ thể, tại cửa hàng Vật tư Nông nghiệp Sánh Ghi thuộc tiểu khu 12, thị trấn Vạn Hà huyện Thiệu Hóa, lực lượng QLTT kiểm tra, phát hiện 6 tấn phân bón NPK giả, nhãn hiệu Hà Bắc. Lực lượng QLTT tỉnh đã lập biên bản xử phạt hành chính chủ cửa hàng Trần Văn Sánh 20 triệu đồng, thu giữ 240 bao phân nói trên chờ tiêu hủy. Cùng thời điểm, Đội QLTT số 10 đóng trên địa bàn huyện Bá Thước cũng đã kiểm tra cửa hàng Hồng Tình ở làng Đắm, xã Ái Thượng, huyện Bá Thước phát hiện 1 tấn phân bón NPK Thành Lợi kém chất lượng, không đủ hàm lượng các chất dinh dưỡng ghi trên bao bì. Sản phẩm này được sản xuất bởi một cơ sở sản xuất tại xã Đông Xuân huyện Đông Sơn. Trước đó, ngày 11/5, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ PC46 Công an Đồng Nai cũng đã tiến hành kiểm tra cơ sở sản xuất phân bón không có bản hiệu do Tào Văn Chinh 33 tuổi quản lý, tại địa chỉ tổ 20, khu phố 4, phường Trảng Dài, TP.Biên Hòa Đồng Nai. Tại thời điểm kiểm tra, đoàn kiểm tra phát hiện có 10 công nhân đang thực hiện đóng gói nhiều loại phân bón từ 0,5 kg đến 1 kg, gồm: Kali Nitrate; sSun phát đồng; Super trung vi lượng; super trung vi lượng thùng 20 lít, Magie sunfat và nhân sâm cây trồng... Những sản phẩm được đóng gói trên bao bì ghi địa chỉ, thương hiệu và nguyên liệu nhập khẩu phân bón cao cấp từ Pháp, Israel, Đài Loan… của một số công ty tại TP.HCM và Đồng Nai. Tuy nhiên, qua kiểm tra, có khoảng 200 tấn nguyên liệu dùng để trộn làm phân bón giả có xuất xứ từ Trung Quốc và nhiều loại phẩm màu, hóa chất chưa rõ nguồn gốc xuất xứ. Toàn bộ số hàng này đã được niêm phong để điều tra. Thực tế, tình trạng phân bón giả, kém chất lượng ngày càng diễn ra tinh vi hơn. Con số mà Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn đưa ra tại hội nghị tổng kết đợt tổng thanh tra toàn diện về chất lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi trên cả nước trong năm 2013 ngày 19/5 vừa qua rất đáng báo động. Tính riêng trong năm 2013, thanh tra Bộ NN&PTNT đã lấy hơn 2.080 mẫu đi kiểm tra, gồm 896 mẫu về phân bón, 459 mẫu thuốc bảo vệ thực vật và 740 mẫu thức ăn chăn nuôi. Trong đó riêng mặt hàng phân bón có 276/896 mẫu không đạt, chiếm tỷ lệ 30%. Tháng 7 mới có Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định Cục Quản lý thị trường QLTT cho biết, tính đến hết quý I năm nay, lực lượng QLTT cả nước đã xử lý 88 vụ vi phạm, xử phạt hành chính 1,26 tỷ đồng, tịch thu 88.642kg, 153 lọ, chai, trị giá hơn 183 triệu đồng, với các hành vi vi phạm chủ yếu là kinh doanh phân bón giả, kém chất lượng; phân bón quá hạn sử dụng, không thuộc danh mục được phép kinh doanh; phân bón nhập lậu. Trong năm 2013, 1.483 vụ vi phạm cũng đã bị xử lý tăng 31% so với năm 2012, phạt hành chính 14,5 tỷ đồng, tịch thu hơn 813,8 tấn, 11.830 gói và 1.165 chai phân bón các loại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tình trạng xử phạt cứ xử phạt, vi phạm vẫn diễn ra, thậm chí tinh vi và phức tạp hơn. Ông Đỗ Thanh Lam- Phó Cục trưởng Cục QLTT- cho rằng, đang tồn tại một số khó khăn, đồng thời là nguyên nhân chủ yếu cần giải quyết. Đó là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh, dễ bị lợi dụng. Bên cạnh đó, với đặc thù, phân bón giả không thể nhận biết bằng mắt thường mà phải qua kiểm định. Nhưng thực tế, do thiếu kinh phí, thời gian giám định kéo dài, không xử lý được kịp thời dẫn đến tình trạng cơ quan chức năng bở hơi tai chạy theo vi phạm. Phân bón cũng là loại hàng hóa đặc thù, đã sử dụng bón cho cây trồng thì không thể thu hồi lại được, do vậy rất khó chứng minh thiệt hại để làm căn cứ xử lý. Nghị định số 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón đã ra đời vào tháng 11/2013 với rất nhiều quy định xử phạt được coi là mạnh tay” với phân bón giả, phân bón kém chất lượng. Tuy nhiên, đến nay Nghị định này vẫn chưa thể đi vào thực thi bởi Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định dự kiến phải tới 15/7 này mới chính thức được ban hành. Với thực tế tình trạng phân bón giả, phân bón kém chất lượng như hiện nay, người dân lẫn doanh nghiệp sản xuất chân chính rất mong Nghị định sớm đi vào thực thi, góp phần làm lành mạnh hóa thị trường phân bón. Nguyễn Duyên Lực lượng QLTT kiểm tra cơ sở kinh doanh phân bón kém chất lượng tại Thanh Hóa PHẢN HỒI. Theo ước tính của Hiệp hội Phân bón, nhu cầu phân bón vụ đông xuân tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ 700.000 - 800.000 tấn, nhưng lượng phân bón nhập khẩu hiện tồn kho gần 1 triệu tấn, phân bón trong nước sản xuất cũng tồn kho 1 triệu tấn. Dù cung” đang vượt cầu”, nhưng giá trong nước vẫn cao ngất ngưởng, bất chấp giá thế giới đang giảm mạnh. Giá quá cao so với thế giới Ông Nguyễn Hạc Thúy, Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón cho biết: Cách đây 3 tháng, giá thế giới của urê là 850 USD/tấn, nay giảm còn 200 USD/tấn; phân DAP từ 1.100 USD - 1.200 USD/tấn, giảm còn 500 USD/tấn; phân SA từ 440 USD/tấn giảm còn 145 USD/tấn. Tương tự, giá nguyên liệu phục vụ sản xuất phân bón cũng giảm đáng kể như lưu huỳnh từ 1.000 USD/tấn giảm còn 50 USD/tấn. Như vậy, giá urê nhập ngoại hiện khoảng 3.500 đ/kg; DAP, kali khoảng 8.500 đ/kg. Tuy nhiên, giá phân bón trong nước mới chỉ giảm nhỏ giọt và còn cách biệt nhiều so với giá thế giới. Chẳng hạn, giá phân DAP từ 10.000 - 13.000 đồng/kg, urê 5.300 đồng/kg, kali 10.000 đồng/kg. Theo nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực này, các mặt hàng phân NPK hiện chỉ mới giảm giá khoảng 20% dù giá nguyên liệu giảm đến 60%. Tại Đồng Tháp, thời điểm này năm ngoái, người mua đã tấp nập, hàng lấy về không kịp bán còn bây giờ thì rất ít người mua, do giá phân bón quá cao nên nông dân chưa thể mua dù thực tế lúa vụ đông xuân đang đói” phân bón.Nhiều nông dân đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt với nhiều khó khăn từ việc không tiêu thụ được lúa của 2 vụ trước và nợ ngân hàng nên không thể tiếp tục mua chịu phân bón, thuốc trừ sâu của đại lý. Nhập giá cao nên không thể bán giá thấp? Theo ông Lê Quốc Phong, hợp quy, phân bón npk Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón VN, các doanh nghiệp DN sản xuất, kinh doanh phân bón đang bị lỗ nặng. DN nhỏ lỗ khoảng vài chục tỉ đồng, còn DN lớn ít nhất cũng lỗ cả trăm tỉ đồng. Nguyên nhân do không dự báo được biến động của thị trường phân bón nên nhiều đơn vị đã nhập nguyên liệu từ giữa năm với giá cao trong khi hiện nay, giá thế giới đã giảm hơn phân nửa. Nếu muốn giải phóng hàng, cắt lỗ, DN phải giảm giá bán. Tuy nhiên, đến nay phần lớn các DN phân bón chưa giảm giá vì họ cho rằng đã nhập nguyên liệu giá cao nên không thể bán giá thấp. Khi nào tiêu thụ hết lượng hàng tồn kho thì mới tính đến phương án giảm giá phân bón. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt Bộ NN-PTNT, cho biết: Các DN đề nghị giảm thuế xuất khẩu, bỏ hạn ngạch xuất khẩu phân bón để giải quyết lượng phân bón còn tồn đọng nhằm thu hồi vốn, cắt lỗ.Tuy nhiên, để bảo đảm đủ phân bón phục vụ cho nông nghiệp, không thể bỏ hạn ngạch cũng như giảm thuế suất. Bên cạnh đó, bộ cũng đã đề xuất dãn nợ, dãn thời gian nộp thuế cho các DN sản xuất, kinh doanh phân bón; đồng thời đề nghị Chính phủ dãn nợ và thu mua lượng lúa tồn đọng để nông dân có thể mua phân bón phục vụ vụ mùa. Song, điều quan trọng nhất là các DN nên làm quen với quy luật giá cả phù hợp với diễn biến của thị trường.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét